Chẳng ai lấy cớ chém suông Tự nhiên ta thấy vấn vương trong lòng Mới rồi nuối tiếc bướm ong Một ngày nên nghĩa chờ mong gặp lại Văn phong chỉ một không hai Dù bao nhiêu nick giấu hoài được sao Thấy anh cất một tiếng chào Tất, lẽ, dĩ, ngẫu ôi chao ngõ hẹp.
Ai Khổ Vì Ai Sáng tác: Thương Linh Thể hiện: Giao Linh https://www.facebook.com/video.php?v=1712513129044773
TẢN MẠN SƯU TẦM VỀ CA KHÚC I- BÀI MỘT: Ca khúc là gì? [08:38 16/02/2005 (GMT+7)] Ngày Valentine, Lưu Hiền đã "tức hứng" viết Tình yêu, hạt mầm của ca khúc một đề tài rất... Valentine. Trong đó, tác giả đã mở ngỏ cho chúng ta với rất nhiều "hạt mầm", hy vọng sẽ là dịp để mọi người quan tâm đến Bàn tròn Âm nhạc sẽ nhập cuộc một cách nhẹ nhàng thoải mái tràn đầy tinh thần "Valentine", khi mà hương vị của ngày xuân còn vương vấn, khó đi vào những vấn đề "gay cấn và hóc búa"... Tôi xin góp chuyện về vấn đề nằm ngay trong chính tựa đề "Tình yêu, hạt mầm của ca khúc" - Ca khúc là gì? Nền âm nhạc của hầu hết các dân tộc trên thế giới thường được chia ra làm hai lĩnh vực chính là thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là những loại hình tác phẩm do giọng người trình diễn (đơn ca, song ca, tam ca, tốp ca, hợp xướng...) có nhạc cụ đệm hoặc không có nhạc cụ đệm; khí nhạc là những tác phẩm do nhạc cụ biểu diễn (độc tấu, song tấu, tam tấu, hòa tấu...). Theo đà phát triển của âm nhạc thế giới, chúng ta còn thấy một số loại hình kết hợp giữa thanh nhạc và khí nhạc như thể loại nhạc kịch, thanh xướng kịch... Ca khúc còn gọi là bài hát (tiếng Pháp: chanson) thường dùng để chỉ một thể loại của thanh nhạc, hơn thế nữa nó là một trong những thể loại đơn giản của thanh nhạc. Đặc điểm đầu tiên của ca khúc (cũng là đặc điểm chung của thanh nhạc) là có lời ca, nếu các tác phẩm khí nhạc được thể hiện nội dung hoàn toàn bằng các hình tượng âm thanh thì thanh nhạc còn có sự tham gia biểu diễn của ngôn từ (lời ca), vì vậy trong thanh nhạc nói chung hay trong ca khúc nói riêng, ca từ giúp cho người nghe dễ tiếp thu tác phẩm, có nơi, có lúc người ta thưởng thức lời ca là chính. Ca từ trong ca khúc là cả một "nghệ thuật", là vấn đề gây nhiều tranh cãi, bàn luận đối với nhạc Việt trong thời gian dài vừa qua. Vì là tác phẩm viết cho giọng người trình diễn nên ca khúc thường có âm vực (độ rộng) phù hợp với tầm cữ giọng người - âm vực rất khiêm nhường so với âm vực các tác phẩm khí nhạc. Thông thường, ca khúc viết cho thiếu nhi có âm vực trong vòng 1 quãng 8, với người lớn thông thường là một quãng 12, với những giọng hát chuyên nghiệp âm vực có thể lớn hơn, cá biệt có nhiều giọng có tầm cữ rất lớn. Ca khúc thường có giai điệu rõ ràng, mô phỏng âm điệu tiếng nói, ít trúc trắc, nhảy quãng như một số tác phẩm khí nhạc, và để lời ca được ngân vang đầy đặn nhất là với tính chất đơn âm tiết của tiếng Việt, sự nối tiếp các lời ca trong ca khúc thường không quá nhanh. Những bài hát ru, những bài dân ca gắn liền với sinh hoạt của con người là hình thức cổ xưa nhất của thể loại ca khúc mà dân tộc nào cũng có, để lưu hành rộng rãi trong đời sống xã hội của quần chúng, ca khúc thường ngắn gọn, nếu xét theo hình thức âm nhạc châu Âu, nó thường ở hình thức một đoạn, hai đoạn hoặc ba đoạn đơn giản. Về nội dung diễn đạt, tuy ca khúc đề cập đến nhiều đề tài phong phú nhưng do hạn chế về hình thức ca khúc thường chỉ diễn tả một cảm xúc, một trạng huống tình cảm, một hình tượng âm nhạc, diễn tả một khía cạnh của cuộc sống, thiên nhiên... không mấy phức tạp nên âm nhạc thường không có những tương phản xung đột, mà chỉ mang tính đặc tả (ngoại trừ một số ca khúc dùng trong opera thay thế cho loại aria một chủ đề). Đó là những hạn chế của ca khúc trong việc chuyên chở, diễn đạt những nội dung âm nhạc lớn, mang kịch tính sâu sắc, nhưng đồng thời đó cũng là những ưu điểm giúp nó phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Ca khúc thường thể hiện những xúc động điển hình, truyền đạt những thông điệp quan trọng với tình huống tiêu biểu, đó là yếu tố làm cho nó gần gũi với đông đảo công chúng, với hàng triệu nhịp đập của con tim. Có lẽ cũng chính đặc điểm đó mà với cùng một giai điệu, có thể nó chuyên chở nhiều lời ca. Giọng hát con người tuy có những hạn chế về âm vực, độ vang, tốc độ... nhưng nhiều người cho rằng giọng người là một nhạc cụ độc đáo nhất trong tất cả các nhạc cụ. Giọng hát con người với tính chất mềm mại uyển chuyển, chân tình, truyền cảm... đã trở thành thế mạnh của thể loại ca khúc, giúp cho ca khúc trường tồn mãi mãi trong đời sống âm nhạc. Có lẽ do sự phổ cập rộng rãi và dễ cảm thụ của ca khúc mà một số thể loại khí nhạc từ thế kỷ 19 đã "mô phỏng" theo thể loại ca khúc. Chúng ta thấy có ca khúc không lời (romance sans parole - tiêu biểu là các ca khúc không lời của Mendelssohn, Tchaikovsky, Rachmaninov); ru con (berceuse); bacarolle (khúc hát người chèo thuyền)... Điều đó cho thấy rằng ca khúc có một vị trí quan trọng trong đời sống âm nhạc của xã hội, nó cũng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc truyền tải những thông điệp thẩm mỹ đến với đông đảo công chúng đối với âm nhạc thế giới và nhất là âm nhạc Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 20 đến nay. Hữu Trịnh II-BÀI HAI: Những ca khúc làm ‘bá chủ’ trên radio 5 năm qua là gì? Tuấn Phạm (Tổng hợp), Thứ ba, 26/09/2017 11:59 · · · Có các ca khúc không những đình đám trên các bảng xếp hạng, mà nó còn là virut âm thanh lan truyền điên cuồng qua hệ thống radio. Đây là năm ca khúc được Billboard bình chọn là ‘Top Radio Song’ trong suốt 5 năm qua. “Somebody That I Used To Know” – Gotye feat. Kimbra Ra mắt năm 2011, ca khúc “Somebody That I Used To Know” được xem như là một gia vị lạ trong dòng âm nhạc thế giới. Là một ca khúc indie với chất liệu tiết tấu lạ đầy bắt tai, huyền bí và kì ảo, vận dụng body painting một cách nhuần nhuyễn, ca khúc nhanh chóng trở thành ca khúc được mở khắp mọi nơi trong thế giới từ quán cà phê, bar, qua loa phát thanh. Chất giọng cao vút của Gotye kết hợp với âm vực trầm của Kimbra làm thành một bản giao hòa tuyệt vời. Ca khúc “Somebody That I Used To Know”AI ĐÓ TÔI ĐÃ TỪNG BIẾT Có lẽ trong suốt sự nghiệp của mình, đây là ca khúc thành công nhất của Gotye khi “Somebody That I Used To Know” nhanh chóng đứng đầu bảng tại Mỹ, Anh cũng 23 quốc gia khác, đạt được gần 1 tỷ lượt xem trên kênh Youtube. Ca khúc cũng dành được giải “Top Radio Song” trong năm 2013 của Billboard, vượt qua cả những ca khúc thân thiện với radio của Maroon 5 như “Payphone”,… AI ĐÓ TÔI ĐÃ TỪNG BIẾT “Blurred Lines” - Robin Thicke ft. T.I., Pharrell Sự pha trộn của R&B và nhạc disco tạo ra một giai điệu vừa mang tính phóng khoáng, vừa bắt tai và nhộn nhịp khiến mọi tín đồ âm nhạc không thể bỏ qua. Trước khi ra mắt, ca khúc “Blurred Lines” cũng đã dính nhiều vụ lùm xùm trong đó có việc coi thường phụ nữ trong MV chính, thậm chí trong một phiên bản của ca khúc, Youtube đã hạn chế độ tuổi. Tuy nhiên, bỏ qua những điều đó, không thể phủ nhận ca khúc bắt tai một cách tuyệt vời. Ca khúc "Blurred Lines" DÒNG MỜ “Blurred Lines” đạt vị trí quán quân ở ít nhất 25 quốc gia và trở thành bài hát số một của năm 2013. Bài hát này sau đó trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại, doanh số bán hàng khoảng gần 15 triệu bản, đồng thời phá vỡ kỷ lục của nhiều ca khúc phát sóng trên radio lớn nhất trong lịch sử. DÒNG MỜ “All Of Me” – John Legend Khi ra mắt ca khúc và đề cử nó cho nhà sản xuất, John Legend đã khẳng định đây là bài hát lớn nhất trong quá trình hoạt động âm nhạc của anh. Đây hoàn toàn là điều đúng. Ca khúc ballad chỉ được hát trên nền nhạc piano, với chất giọng ngọt ngào đầy say đắm của John Legend, cùng những cảnh mặn nồng trong MV với phông nền trắng đen. Giai điệu dịu dàng và say đắm khiến bạn quên đi những khó khắn và bị kéo vào niềm vui sướng tuyệt vời. Ca khúc" All Of Me" TẤT CẢ CỦA TÔI “All Of Me" đưa đến chiến thắng cho John Legend khi đó là đĩa đơn của anh trên bảng xếp hạng Billboard. Ca khúc cũng đánh bại bài hát vui tươi “Happy” của Pharrell Williams, đứng ở vị trí thứ hai ở Anh và New Zealand và đứng đầu bảng xếp hạng tại Úc, Canada, Ireland, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Hà Lan. Nó đã trở thành bài hát bán chạy thứ hai của năm 2014 tại Hoa Kỳ với 4,6 triệu bản được bán trong năm. “Shut Up And Dance” – Walk The Moon Pha trộn nhiều dòng nhạc rock khác nhau, “Shut Up And Dance” nhanh chóng giành được chiến thắng mạnh mẽ trên các bảng xếp hạng âm nhạc uy tín, trong đó có Billboard. Với cách hát tràn đầy năng lượng và nhiệt huyết, ca khúc như một dàn đồng ca xoay quanh một giọng hát đầy nội lực và biết cách khuấy đảo cảm xúc của khán giả. Ca khúc "Shut Up And Dance" IM LẶNG VÀ NHẢY ĐI “Shup Up And Dance” trở thành một trong những bài hit lớn nhất của nhóm nhạc rock Walk The Moon, đứng vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard . Bên ngoài Hoa Kỳ, bài hát đứng đầu bảng xếp hạng ở Ba Lan, đứng trong top ten của bảng xếp hạng ở Úc, Canada, Đức, Israel, Cộng hòa Ireland và Vương quốc Anh. “Can’t Stop The Feeling” – Justin Timberlake Dù ở độ tuổi nào, thì Justin Timberlake vẫn luôn biết cách khiến ca khúc của mình trở nên mới mẻ và đầy cuốn hút. Không phủ màu gợi cảm hay u tối, ca khúc là một bản nhạc sôi động với phần điệp khúc gây nghiện khiến người ta phải ngất ngây. Đồng thời, “Can’t Stop The Feeling”cũng là thử nghiệm của Justin khi hòa hợp giữa pop với nhạc soul và disco. Ca khúc "Can"t Stop The Feeling" CÓ THỂ NGỪNG CẢM GIÁC MV “Can’t Stop The Feeling” đạt được 600 triệu lượt xem trên Youtube, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Argentina, Braxin, Bỉ, Canada, Cộng hòa Séc, Pháp, Đức, Israel, Mexico. Bài hát đã nhận được nhiều giải thưởng và đề cử. Nó đã được đề cử giải Oscar cho bài hát gốc xuất sắc nhất tại lễ trao giải hàng năm lần thứ 89 và Bài hát hay nhất được viết cho phim ảnh của Grammy.
3-BÀI BA Ban nhạc Năm dòng kẻ Sân khấu ca nhạc nhẹ Việt Nam từng là một “cơn sốt” trong những năm giao thời của thập niên 70 - 80, bao hàm cả mặt tích cực và mặt hạn chế. Giờ đây, nó lại càng trở nên sôi động hơn bởi sự xuất hiện của nhiều gương mặt trẻ, sáng giá và sự ra đời của hàng chục ban ca nhạc nhẹ chuyên và không chuyên trên phạm vi cả nước. Đâu là điểm khởi đầu? Yếu tố lịch sử xã hội, trào lưu nghệ thuật mới, tác phẩm hay phong cách biểu diễn…?. Trong phạm vi tiểu luận này, tôi muốn nêu một cách nhìn biện chứng về nhạc nhẹ Việt Nam… I. NHẠC NHẸ LÀ GÌ? Theo từ điển khoa học thì nhạc nhẹ được định nghĩa như sau: “nhạc nhẹ là nhạc tạp kỹ, nhạc giải trí, nằm giữa hai loại nhạc tiêu thụ thông dụng và nhạc nghiêm túc, nhằm làm vui tai, vui lòng người nghe, đem lại sự bình tĩnh, tái tạo sức khoẻ, thu hút giải trí tinh thần…”. Cũng tương tự, từ điển âm nhạc còn nói rõ thêm: “nhạc nhẹ là loại nhạc được đông đảo quần chúng dễ tiếp thu và dùng giải trí. Đặc điểm của nhạc nhẹ là nội dung, hình thức đơn giản, dễ nhớ. Tính chất âm nhạc thường vui tươi, yêu đời. Nhiều thể loại nhạc nhảy múa, sinh hoạt, hành khúc, những bản Overture nhỏ (khúc mở màn), các bài tổ khúc Rhapsodia, Fantasia, dựa trên chủ đề của các Operet, những bài hát hài hước, hát Estrade(1), trong các vở diễn cũng được xếp vào loại nhạc nhẹ…”. Còn thể loại nhạc Rock(2), một phong cách nhạc nhẹ hiện đại thì có tính chất “kích thích trực tiếp vào giác quan và tâm sinh lý con người bằng tiết tấu, cường lực âm thanh và vũ đạo..”. Dù vậy, cho đến nay, những khái niệm (hoặc định nghĩa) về nhạc nhẹ vẫn chưa thực sự nhất quán và hầu như diễn đàn lý luận về nhạc nhẹ vẫn là cuộc “luận chiến” bất phân thắng bại. Cho dù, đời sống ca nhạc nhẹ đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và từng được đông đảo công chúng ngưỡng mộ đến cuồng nhiệt (trong đó có Việt Nam), thì diễn đàn lý luận về nhạc nhẹ vẫn tập trung phần lớn là những ý kiến phản bác. Đại thể các ý kiến xin được tóm lược như sau: “Nhạc nhẹ là thứ âm nhạc giải trí thuần tuý, kém tính giáo dục, chỉ nhằm mục đích thương mại (…), là loại âm nhạc hướng thẩm mỹ vươn tới lối sống thực dụng, hiện sinh chủ nghĩa (…), nhạc nhẹ không cần vai trò giai điệu (nội dung), chỉ cần tiết tấu (…), nhạc nhẹ là sản phẩm tinh thần thời thượng của nhịp sống công nghiệp hiện đại…”. Chưa hết, một số ý kiến khác còn phê phán nhạc nhẹ như một thứ “đại dịch” toàn cầu, ví dụ như: “nhạc nhẹ gây kích động hận thù và bạo lực (…), nhạc nhẹ nuôi dưỡng tâm lý vong bản, xa rời tổ quốc”. Thật đáng ái ngại, nếu phải bắt đầu tìm hiểu về nhạc nhẹ, lại từ chính những “điển hình” vừa nêu, nếu như chúng ta không hiểu được bản chất khởi thuỷ, vốn hàm chứa những tư tưởng tích cực của loại hình ca nhạc này (đương nhiên, những bước đi thăng trầm và các biến thái của nó cũng mang tính xã hội khá phức tạp). Hơn thế, loại hình ca nhạc đó từng đóng góp một vai trò to lớn trong việc khuyến cáo về sự ngưng trệ của nghệ thuật âm nhạc, về tính dân chủ, bình đẳng, chống áp bức, cường quyền và những khát vọng vươn tới tự do và hòa bình… 1.1. Vài nét về ngọn nguồn và bản chất nhạc nhẹ. Cũng như sự nảy sinh của mọi loại hình nghệ thuật mới: Opera ra đời từ phong trào phục hưng Ý (phục hồi các giá trị văn hóa cổ đại Hy Lạp), Sonate ra đời từ đòi hỏi phải giải quyết những mâu thuẫn xã hội Châu Âu trước và trong cách mạng tư sản, còn trào lưu âm nhạc lãng mạn (ca khúc, tiểu phẩm) thì giải quyết khuynh hướng thẩm mỹ trong “cái tôi” ẩn mình, trốn tránh thực tại… Nghĩa rằng, mọi loại hình nghệ thuật nảy sinh đều từ một nguyên nhân xã hội cụ thể, hay nói theo cách của các nhà chuyên môn là “nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống”. Cũng chính từ lẽ đó, mà một Châu Âu sau thế chiến lần thứ II, với một đống hoang tàn, đổ nát và hàng chục triệu người phiêu bạt, không nhà cửa, không gia đình, không chốn nương thân, thì những bản hùng ca hiệu triệu (như sonate, symphony) không còn đủ sức thuyết phục để tập hợp quần chúng như trước đó nữa. Lẽ dĩ nhiên, quần chúng đang khát khao một thứ nghệ thuật mới, nhằm làm cân bằng trạng thái vốn đã quá chán nản, mệt mỏi vì chiến tranh - Bấy giờ, nhạc nhẹ ra đời, và nó đã ra đời cũng tự nhiên như mọi loại hình nghệ thuật khác, nghĩa là “cuộc sống đã sinh ra nghệ thuật”. Thực ra, nhạc nhẹ đã hình thành từ thế kỷ trước (XIX), với tư cách là những bản nhạc giải trí, vui vẻ. Và thoạt đầu nó cũng đơn giản như mọi loại hình nghệ thuật khi mới chào đời. Chỉ cần một giọng hát với một, hai cây đàn (thông thường là đàn Guitare), sau đó mới phát triển thành ban, nhóm, với những phong cách biểu hiện khác nhau. Phải cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, nhạc nhẹ mới thật sự trở thành một sự kiện âm nhạc nổi bật. Đầu tiên phải kể đến nhóm Beatles, gắn liền với tên tuổi của ca sĩ lừng danh John Lenon. Lối biểu hiện âm nhạc của họ (nhóm Beatles) đã thâu tóm được những truyền thống tốt đẹp của nhạc nhảy, nhạc Estrade, đó là những giai điệu phong phú, sinh động, kết hợp với cái khoẻ khoắn, gay gắt cuồng say của Rock. Sự kết hợp này tinh tế, tài năng tới mức độ nghệ thuật cao (chứ không phải chỉ để giải trí đơn thuần). Họ (nhóm Beatles) cũng chính là những người đầu tiên sử dụng giai điệu khai thác từ dân ca Scotland, và cả những điệu thức, thang âm của các dân tộc khác không thuộc Châu Âu. Lời ca trong những bài hát của nhóm Beatles cũng chải chuốt và có giá trị văn học, đồng thời, lại hóm hỉnh, thông minh với nội dung ca ngợi tình yêu con người, thí dụ các ca khúc Ngày hôm qua (Yesterday); Tôi yêu cô ấy (I love her); Hãy dành cho hòa bình một tia hy vọng (Give Pea a chane); Hãy tưởng tượng (Imagine). “…Hãy tưởng tượng sẽ không có các quốc gia riêng rẽ...” Cũng trong thập niên 60 này, còn có một nhóm nhạc nhẹ khác là Rollin Stone, là nhóm nhạc duy nhất có thể cạnh tranh với Beatles. Dựa trên cơ sở âm nhạc dân gian của người Mỹ da đen (điệu Blues), các ca khúc của họ đã phản ánh nỗi thất vọng của thanh niên trước những vấn đề không thể giải quyết được của xã hội, đó là tình trạng áp bức bất công và tệ phân biệt chủng tộc… Ngoài ra, cùng thời với Beatles và Rollin Stone còn phải kể đến ca sĩ lừng danh, kiêm nhà soạn nhạc người Mỹ - Bob Dylan, với lối kết hợp giữa dân ca và Rock, tạo nên một phong cách mới: Folk Rock (Rốc dân ca) làm say đắm lòng người. Vẫn trên cơ sở giải quyết những khuynh hướng thẩm mỹ mới, nhạc nhẹ không ngừng phát triển cả về hình thức lẫn nội dung và dẫn đến sự hình thành (biến thái) của các trào lưu nhạc nhẹ khác. Nếu khoảng thời gian từ giữa những năm 50 đến giữa những năm 60, Rock chủ yếu loanh quanh trong thể loại ca khúc ngắn thì từ những năm cuối thập niên 60, đã xuất hiện những tìm tòi, thể nghiệm mới có tính nghiêm túc hơn. Một trong những tìm tòi, thể nghiệm của các nhạc sĩ Rock là tìm nguồn cảm hứng sáng tạo từ những giai điệu âm nhạc của chủ nghĩa cổ điển. Ta gặp trong những tác phẩm nhạc nhẹ của thời kỳ này bóng dáng của những giai điệu tuyệt vời của Bach, Vivandi, Mozart, Beethoven… và cũng từ đó, trào lưu Baroque Rock (Rock kỳ mỹ) ra đời, tiêu biểu cho trào lưu này là nhóm Pracon Harun, với ca khúc nổi tiếng Còn nhợt nhạt hơn cả bóng hình… Vào những năm đầu của thập kỷ 70, xuất hiện những trào lưu nhạc nhẹ mới như: Symphony Rock (Giao hưởng Rock), Opera Rock (Nhạc kịch Rock)… nổi bật là nhóm nhạc của Ghenesich. Cho tới đây, nhạc nhẹ đã khai thác và tận chiếm những “hạt nhân hợp lý” của khá nhiều loại hình âm nhạc khác, không loại trừ cả việc “tấn công” vào thành trì kiên cố của âm nhạc nghiêm túc (Opera, Symphony…), tất nhiên là với thiện chí nhằm hoàn thiện thể loại nghệ thuật mới ra đời. Đặc điểm của trào lưu nhạc nhẹ hiện đại là gắn liền với công nghệ điện tử đạt tới những thành tựu cực kỳ quan trọng vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Electronic Rock là thành quả của chủ nghĩa âm nhạc tiền phong, thoát thai từ công nghệ điện tử đạt đến đỉnh cao. Những nhóm thuộc trào lưu nghệ thuật này đã hấp dẫn người nghe, đưa họ vào một thế giới âm thanh hỗn độn, nghịch tai, những tiếng xào xạc, rú rít kỳ quái của vũ trụ, điển hình là nhóm Fink Floid và Who… Càng ngày, nhạc nhẹ với sự biểu hiện của Rock càng khẳng định được vị trí của mình trong nền âm nhạc thế giới bằng nội dung phản ánh hiện thực, bằng sự yêu thích của đông đảo công chúng. Giờ đây, các tác phẩm không chỉ miêu tả tâm tư, tình cảm, khát vọng, những nỗi bế tắc của con người trong xã hội hiện đại, hay tái tạo lại những vẻ đẹp cổ xưa của âm nhạc cổ điển, mà còn tiếp tục tiến sâu hơn nữa vào những vấn đề nóng hổi của thời đại, hình thành một trào lưu nhạc nhẹ mới: Rock chính trị. Thoạt đầu, tính chất chính trị chỉ phảng phất trong một vài ca khúc nhạc Rock như Italian của Totocutuno, sau lan rộng ra và trở thành một thứ vũ khí sắc bén của thanh niên trong cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội. Những cuộc biểu tình chống chiến tranh, đòi hoà bình hoặc phản đối chính quyền độc tài, phát xít đều kèm theo biểu diễn nhạc Rock. Quá trình hình thành Rock chính trị có thể thấy rõ qua nhóm String Band (Canada). Thời kỳ đầu, vào những năm 70, âm nhạc của họ đi theo hướng Rock đồng quê, những sáng tác chủ yếu của họ dựa vào các làn điệu dân ca Canada, kết hợp với ảnh hưởng nhạc Jazz của người Mỹ da đen. Về sau này, những âm điệu chân chất của String Band được thay thế bằng ngôn ngữ chính trị. Bằng nghệ thuật Rock mang tính thời sự, String Band đã bày tỏ thái độ phản kháng, căm phẫn và chống chiến tranh huỷ diệt của chính quyền Mỹ. Rock chính trị không chỉ biểu hiện bước tiến của nó trên phạm vi toàn cầu mà còn là sự đổi mới, sáng tạo ngay trên chính mảnh đất đã sản sinh ra nó - Brazil, một trong những chiếc nôi của các nhóm nhạc Rock chính trị nổi tiếng. Dù bằng nhiều phong cách thể hiện khác nhau, nhưng các nhóm Rock ở đây đều hướng về chủ đề nhân đạo và hòa bình. Không những thế, Rock chính trị còn lan tới cả những sào huyệt của chủ nghĩa đế quốc, thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh đòi giải phóng dân tộc như ở Chile, ở Nicaragoa, ở Apganikitan và nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới. Có thể nói rằng, dù dưới nhiều phong cách biểu hiện khác nhau, nhưng nhạc nhẹ: Pop, Jazz, đặc biệt là Rock đã chứng tỏ sức hấp dẫn mãnh liệt của nó trên phạm vi toàn thế giới.
3- BÀI BA: 1.2. Vì sao nhạc nhẹ bị tai tiếng? Dù ý nghĩa, mục đích ra đời của nhạc nhẹ là vô cùng to lớn và bản chất nghệ thuật của nó cũng bình đẳng như bao thể loại nghệ thuật chân chính khác là hướng tới cái đẹp và giải quyết những nhu cầu về cái đẹp. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã biết, mảnh đất sinh ra chúng, nuôi dưỡng chúng là chế độ tư bản phát triển, hàm chứa nhiều mâu thuẫn phức tạp. Mặt khác, mọi sản phẩm nghệ thuật trong xã hội đó, trước hết phải là thương mại và gắn liền với thương mại. Người nghệ sĩ trong chế độ tư bản buộc phải chịu ảnh hưởng của lối sống thực dụng. Danh vọng, tiền tài, thị hiếu quái đản… là những phản ánh chủ yếu của đời sống tinh thần và văn hoá của xã hội tư bản phát triển. Xin đơn cử trường hợp nhóm Beatles, với phong cách biểu diễn luôn tìm tòi, nội dung luôn cách mạng và nghệ thuật luôn hấp dẫn, đã thu hút hàng chục triệu thanh niên đi theo họ, coi họ là thần tượng của thế giới. Họ phản đối chiến tranh, ủng hộ hoà bình, thu hút quần chúng bằng những bài hát tiến bộ như Hãy cho hòa bình một tia hy vọng; Chính quyền về tay nhân dân… Nhưng rồi chính họ cũng không thoát khỏi quy luật của đồng tiền, của thị hiếu mà chính họ vừa là kẻ gây ra, vừa là nạn nhân. Đó chính là “lối sống Beatles”, một lối sống nhếch nhác, bê tha, lập dị, phá phách mọi trật tự trên dưới của xã hội, làm đảo lộn mọi quan điểm thẩm mỹ của mọi tầng lớp nhân dân. Đây cũng là lối sống điển hình của xã hội Phương Tây. Và cũng chính lối sống đó đã dẫn đến cái chết của các “siêu sao” nhạc Rock như Elvis Presley, John Lenon, Suteliffe… Trào lưu nhạc Rock không chỉ dừng lại ở nơi “thánh địa và thiên đường” của chủ nghĩa tư bản mà đã nhanh chóng lan tràn tới các quốc gia dân chủ và được tiếp nhận một cách hoan hỉ, nồng nhiệt bằng sự ra đời của các ban nhạc như Olanhpic, Modiva (Tiệp Khắc); Omega, Lacomotip (Hung ga ri); Pundes, Korat (Đức), Ialla (Nga); Sprint (Bungari)… Mặc dù, trào lưu nghệ thuật này (vốn có bản chất tốt đẹp), đã mang lại một không khí sôi động, hiện đại, như bồi đắp thêm phù sa màu mỡ cho đời sống âm nhạc của các quốc gia dân chủ, nhưng rồi cũng lại chính nó đã gây nên một tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ ở nhiều quốc gia. II. NHẠC NHẸ VÀ CA KHÚC NHẠC NHẸ VIỆT NAM. 2.1. Ca khúc nhạc nhẹ Việt nam - sự ra đời tất yếu, hợp quy luật. Dù những khái niệm về nhạc nhẹ còn có nhiều điểm bất cập, và những tai tiếng về nó khiến giới chức chuyên môn và các nhà quản lý nghệ thuật đôi lúc tỏ ra dè dặt, ái ngại, khi phải đặt vấn đề thừa nhận và định hướng hoạt động cho loại hình nghệ thuật mới này, thì việc ra đời của nhạc nhẹ Việt Nam vẫn thật tự nhiên như chính nó đã có vậy, trước khi loại hình nghệ thuật đó tiếp thu yếu tố bên ngoài. Sự chuyển hướng nội dung đề tài ca khúc từ thời chiến sang thời bình đã làm cho hình thức biểu hiện nghệ thuật của ca khúc cũng thay đổi để phù hợp với nội dung cần phản ánh. Chưa nói đến ca khúc nhạc nhẹ, thì ca khúc Việt Nam nói chung đã xuất hiện khuynh hướng “nhẹ hoá” bằng sự thay đổi quan niệm thẩm mỹ trước hết của chính các nhà soạn nhạc (nhạc sĩ sáng tác), và họ đã thành công cũng như họ từng thành công trong mảng ca khúc phục vụ kháng chiến vậy. Cũng phải thừa nhận rằng, trong đội ngũ sáng tác thì lớp nhạc sĩ “giao thời”, trưởng thành từ giữa hai thời điểm chiến tranh và hòa bình, tỏ ra khá năng động, nhạy bén và tiên phong trong lĩnh vực “nhẹ hóa” ca khúc. Tình yêu, quê hương, những chuyện nhỏ lẻ, đời thường được phản ánh thông qua cái “tôi”, với lối cấu trúc hai đoạn nhắc lại, là nội dung, hình thức khá phổ biến trong ca khúc Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay. Bấy giờ, người ta ít thấy thể loại ca khúc hùng tráng, trang trọng, dục giã (ca khúc hành khúc) phổ biến trong thời kỳ chiến tranh, vì loại phương tiện biểu hiện ấy, ít nhiều đã không còn phù hợp với tâm lý lắng lại, suy tư sau những biến cố: vinh quang và khốc liệt, toàn thắng và hy sinh, ước mơ và hiện thực… Người Việt coi trọng tình cảm hơn mọi thứ triết lý trên đời, đó là tình yêu quê hương, tổ quốc, gia đình, bè bạn... được biểu hiện trong tâm tư bằng những con đường, hàng me, dòng sông, bến nước, góc phố, sân nhà… Họ từng gói chặt tâm tư, tình cảm vào tận đáy lòng để bền gan đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc. Hiển nhiên, điều hữu lý là lúc này đây, những bài ca tình yêu cuộc sống, dần dần có chỗ đứng bên cạnh những bài ca đấu tranh cách mạng - đó là một quy luật: quy luật chuyển hóa trạng thái tâm lý xã hội từ thời chiến sang thời bình. Với chủ đề, nội dung mà cái “tôi” là trung tâm của sự biểu đạt, ca khúc “nhẹ hoá” ngày nay, một phần nào nhắc lại lối biểu trưng của ca khúc tiền chiến (dòng ca nhạc lãng mạn trước cách mạng). Có thể nói rằng, cái “tôi” và cơ sở âm điệu của những ca khúc tiền chiến, chính là cái hình hài ban đầu của ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam. Nó sẽ đồng thời hình thành và phát triển song song với thể loại ca khúc chính thống (chính ca, ngợi ca). Ngày nay, ta vẫn còn gặp lại trong một số ca khúc “nhẹ hoá”, lối tiến hành giai điệu Legato Cantabile (mềm mại, du dương) của những Giọt mưa thu, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong; Thiên thai, Suối mơ của Văn Cao; Đêm đông của Nguyễn Văn Thương; Sơn nữ ca của Trần Hoàn; Dư âm của Nguyễn Văn Tý; Sóng nước ngọc tuyền của Huy Du… Đó là chưa nói tới phần lớn các ca khúc vùng tạm chiếm trước năm 1975, đều đã tồn tại và kế thừa trên cơ sở của ca khúc tiền chiến. Điểm khác nhau đáng lưu ý là nếu cái “tôi” trong ca khúc tiền chiến gắn với sự cô đơn, chiếc bóng, lạnh lùng và thoát ly thực tiễn, thì cái “tôi” trong ca khúc “nhẹ hoá” sau năm 1975 là cái “ta” trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội. Có thể diễn đạt cái “tôi” trong ca khúc sau năm 1975 theo mệnh đề sau: Tôi viết bài hát nói về Tôivới Mọi người, đó là cái Tôi với Tình yêu, Bè bạn, Gia đình, Tổ Quốc và với Mọi vấn đề xã hội thông qua Lăng kính thẩm mỹ nghệ thuậtcủa Tôi. Sự “nhẹ hoá” về hình thức biểu hiện ca nhạc từ thời chiến sang thời bình còn cần phải kể đến một tác nhân cơ bản khác nữa, mà ở vào thời điểm lịch sử đó, không mấy ai dám thừa nhận - Đó là tình trạng các đơn vị nghệ thuật không còn được duy trì chế độ bao cấp như trước nữa mà phải tự doanh, tự túc để tồn tại. Bởi vậy, việc “nhẹ hoá” về mọi phương diện: tổ chức, biên chế, phương tiện hoạt động… là biện pháp để cứu nguy thiết thực nhất, cho dù biện pháp đó bị coi là cấp thời. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà vào thời điểm “điêu đứng” đó, thì phần lớn tên gọi của các đoàn ca múa nhạc đều có thêm chữ “nhẹ” như: Ca múa nhạc nhẹ Hải Đăng I, II (Phú Khánh), Ca múa nhạc nhẹ Chim Yến (Nghĩa Bình), Ca múa nhạc nhẹ Tiên Sa (Quảng Nam - Đà Nẵng), Ca múa nhạc nhẹ Bông Sen (TP.Hồ Chí Minh). Ở vào thời điểm đó, “…hầu như đơn vị nghệ thuật nào cũng làm nhạc nhẹ, và có khi nhạc nhẹ trở thành chức năng chủ yếu…” (Báo cáo Đại hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá III). Về sự hình thành của dòng ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam, không thể không kể đến vai trò to lớn của phong trào ca khúc chính trị vào những năm cuối thập kỷ 70 và còn tiếp tục phát triển rầm rộ cho đến những năm đầu của thập kỷ 80(3). Với tính chất gọn nhẹ, năng động, xung kích, tốp ca khúc chính trị ra đời nhằm phục vụ những nhiệm vụ chính trị cấp bách của nhà nước trong “chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ. Mặt khác, ca khúc chính trị còn là một loại hình biểu hiện nghệ thuật quần chúng, bắt kịp với nhịp điệu thời đại, thoả mãn một phần nhu cầu thẩm mỹ của nhân dân, trước hết là sự đòi hỏi của quần chúng về một thứ nghệ thuật “hiện thực hoá cuộc sống”. Có thể chưa ai dám quả quyết rằng: một ca khúc nào đó trong lịch sử hình thành và phát triển của nền ca nhạc Việt Nam là “bản tuyên ngôn” cho dòng ca khúc nhạc nhẹ, nhưng có thể nói, loạt ca khúc ra đời từ phong trào ca khúc chính trị, báo hiệu sự mở màn cho một hướng đi mới của ca khúc: ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam. Phương pháp biểu hiện của ca khúc chính trị không phải là lối chính luận ca, kêu gọi (hiệu triệu), thúc dục như những ca khúc trong chiến tranh mà nó đi sâu vào mọi khía cạnh cuộc sống, tâm lý đời thường và phản ánh những tâm tư, tình cảm, ước mơ và khát vọng của thế hệ trẻ về những vấn đề nóng bỏng hôm nay. Bởi vậy, phương tiện biểu của nó thường với hình thức ngắn gọn, quần chúng hóa với bút pháp sáng tác đơn giản, dễ truyền đạt, khác với lối biểu hiện của ca khúc thời kỳ trước đây thường là dài dòng, đồ sộ tới mức hoành tráng (để chuyển tải được cái “chúng ta”) như Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi; Đường chúng ta đi của Huy Du; Người là niềm tin tất thắng của Chu Minh… Lại nữa, chính yêu cầu, chủ trương của ban tổ chức phong trào ca khúc chính trị về các mặt như: biên chế diễn viên, nhạc công và chương trình biểu diễn phải gọn nhẹ, các tiết mục phải gắn kết với nhau, nhanh chóng, sinh động (không để sân khấu “chết”). Mỗi một chương trình dài nhất cũng chỉ độ 15 - 20 phút, nhưng lại phải phản ánh được tiêu biểu các mặt hoạt động của đơn vị, địa phương… chính là một đòi hỏi, buộc các nhà soạn nhạc phải tìm chọn một hình thức biểu hiện thích hợp. Vậy là hình thức ca khúc hai đoạn ngắn, có phần điệp khúc (nhắc lại), dễ nhớ, dễ truyền đạt và công chúng dễ tiếp nhận là hình thức cơ bản, phổ biến trong sáng tác ca khúc chính trị. Có thể diễn đạt sơ đồ hình thức phổ biến của các ca khúc chính trị như sau: Đoạn A Đoạn B Lời 1 2 3 4 Điệp khúc (không thay đổi) ĐK ĐK ĐK Về âm điệu, để tạo được không khí sôi động, có sức hấp dẫn và thu hút công chúng, nhà soạn nhạc đã khai thác mặt tiết tấu theo tính cách hoặc gần với tính cách của nhạc vũ điệu, làm cho cơ cấu âm điệu của ca khúc chính trị về cơ bản là có sự thay đổi so với âm điệu của ca khúc truyền thống(4). Chính vì những lẽ đó mà phong trào ca khúc chính trị về mặt bản chất không phải là một khuynh hướng nghệ thuật, nó ra đời từ yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, thông qua hoạt động văn hoá văn nghệ quần chúng, nhưng ngẫu nhiên, đã tạo sự phát triển mới cho thể loại ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam. Và từ phong trào này (ca khúc chính trị), ta thường gặp trên sàn diễn, kiểu liên khúc nhạc nhẹ (hay nhạc trẻ) mà các tiểu khúc của liên khúc đó là những ca khúc chính trị. Phong trào ca khúc chính trị ra đời đã đáp ứng được cả hai chức năng chủ yếu của nghệ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa, đó là chức năng giáo dục tư tưởng và chức năng giáo dục thẩm mỹ. Về điểm này, liên hoan ca khúc chính trị lần thứ nhất, năm 1980 là một minh chứng. Như vậy, chưa kể đến yếu tố tiếp thu bên ngoài, thì yếu tố tự thân đã chứng tỏ, nhạc nhẹ hay sự “nhẹ hoá” hình thức biểu hiện ca nhạc Việt Nam đã là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự “bùng nổ” của nó khiến giới chức chuyên môn và các nhà quản lý nghệ thuật dường như ngỡ ngàng và đã ít nhiều có những định kiến. “…khi phong trào ca khúc chính trị mở ra, các cơ quan có trách nhiệm chưa làm sáng tỏ những nét chung và riêng giữa ca khúc chính trị và nhạc nhẹ, từ đó dẫn đến tình trạng có nơi, có lúc ca khúc chính trị biến thành một thứ nhạc nhẹ xô bồ, thành loại ca khúc vô chính trị…”(Báo cáo Đại hội Nhạc sĩ khoá III) Vậy, nhạc nhẹ Việt Nam phải được hiểu như thế nào sau những dẫn dụ vừa nêu? Về vấn đề này, chúng tôi xin trình bày mấy quan niệm như sau: a/ Đối với nghệ thuật, giới hạn của những loại thể chỉ có tính tương đối, ước lệ, nhất là các thể loại nằm ở dạng thể trung gian hoặc dạng thể cùng nguồn gốc. Ví dụ như: ca khúc thì có chính ca, tình ca, ca khúc hành khúc, ca khúc nghệ thuật, ca khúc quần chúng, ca khúc nhạc nhẹ… Hầu như người ta chỉ có khái niệm rõ ràng nhất là giữa khí nhạc (nhạc đàn) và thanh nhạc (nhạc hát), còn mọi thể loại trung gian, giới hạn của nó thật mong manh. Vậy có cần thiết phải định nghĩa (hay khái niệm) lại nhạc nhẹ hay không, trong khi đã có quá nhiều khái niệm về nó. Một điều chắc chắn rằng, hiện nay, người ta nói đến nhạc nhẹ là để phân biệt nó với những thể loại âm nhạc khác không thuộc nhạc nhẹ như: cổ nhạc, âm nhạc thính phòng, nhạc giao hưởng…và đó cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà thôi. b/ Rất tự nhiên rằng, không ai gọi các bài hát phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là nhạc nhẹ cả, vì trên thực tế, loại nhạc đó không phải để giải trí mà chức năng chủ yếu là tác động, cổ vũ sản xuất và chiến đấu. Vậy, tất phải hiểu nhạc nhẹ bằng khái niệm “giải trí là chủ yếu”, rồi sau đó “có thể nâng thành tình cảm, tư tưởng” và chắc chắn “nó phải gắn liền với tính thương mại”. Vì vậy, cũng cần phải xác đinh lại vị trí của các sản phẩm nghệ thuật. Phải thống nhất quan niệm rằng, mọi sản phẩm xã hội (trong đó có sản phẩm nghệ thuật), tất yếu phải có giá trị hàng hóa. Chỉ tiếc, bấy lâu nay “giá trị hàng hoá” của thành phẩm nghệ thuật quá…rẻ, khiến về mặt tâm lý, các nhà sáng tạo nghệ thuật cứ phải lấy vinh quang tinh thần làm trọng, nghệ thuật phải là nghệ thuật, không thể coi nghệ thuật là thứ có thể mua bán được. Nếu ta cứ bỏ qua tính chất thương mại của nhạc nhẹ (mặc dù bản chất khởi thuỷ của nhạc nhẹ không phải chủ yếu là thương mại, quảng cáo), thì lấy gì để “tái sáng tạo” sản phẩm nhạc nghiêm túc. Điều cần phê phán là người ta đã lợi dụng tính khả thi, hữu dụng và thị hiếu của nó để khai thác thương mại, dưới vai trò của những “cai thầu nghệ thuật”. c/ Coi nhạc nhẹ, nhất là trào lưu nhạc nhẹ hiện đại (Rock), ra đời gắn liền với nền công nghiệp phát triển là đúng, nhưng nói nhạc nhẹ Việt Nam cũng ra đời với ý nghĩa tương tự là không có cơ sở. Ngược lại, dòng nhạc ấy phát sinh ở Việt Nam lại đúng vào thời điểm mà nền kỹ thuật và công nghệ của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nếu không nói là kém phát triển. Vậy có nghĩa, nhạc nhẹ Việt Nam phải được hiểu theo một khía cạnh khác, một khía cạnh thuần tuý về mặt tâm lý, tình cảm, thẩm mỹ hơn là dựa vào nhịp sống có âm điệu và tiết tấu sôi động của nền công nghiệp hiện đại. d/ Cũng cần phải lưu ý rằng, yếu tố “ngoại nhập” cũng là rất quan trọng, góp phần bổ sung những “hạt nhân hợp lý” mang tính nhạc nhẹ quốc tế và kích tác cho quá trình phát triển nhạc nhẹ ở Việt Nam sớm hơn, nhanh hơn. Nhưng yếu tố “ngoại nhập” ở nước ta chủ yếu chỉ thông qua các hình thức trao đổi nghệ thuật biểu diễn với nước bạn hoặc hình thức truyền thông bằng băng tiếng, băng hình. Còn trên thực tế, ta chưa cử nhiều lớp nghệ sĩ, diễn viên sang học tập nhạc nhẹ ở nước bạn và cũng chưa tổ chức được hệ thống đào tạo nhạc nhẹ ở trong nước một cách chính quy. Bởi vậy, yếu tố “ngoại nhập” cũng chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho yếu tố tự thân, làm cho yếu tố tự thân phát triển, ngày càng có khả năng sánh ngang tầm với nhạc nhẹ khu vực và thế giới, tất nhiên, vẫn là với tính cách của nhạc nhẹ Việt Nam. Dĩ nhiên, quá trình tiếp thu yếu tố “ngoại nhập” (cũng như phong trào “hát lời ta theo điệu tây”), không thể tránh khỏi sự rập khuôn, nhại lại, hoặc cường điệu cho giống với phong cách nhạc nhẹ nước ngoài, có khi tới mức lố bịch. Và cũng đã không ít thời điểm, sân khấu nhạc nhẹ Việt Nam, ở nơi này, nơi kia tha hóa tới mức mà đối tượng công chúng chủ yếu đến đó là không cốt để nghe ca nhạc! e/ Coi nhạc nhẹ Việt Nam là một hiện tượng, trào lưu, hay một phong trào đều không đúng. Phong trào thường chỉ một cuộc vận động lớn (có thể tự phát, tự giác hay chủ trương), có quy mô phổ biến, toàn dân như phong trào “ba sẵng sàng”, “ba đảm đang”, phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, phong trào “vì miền Nam thân yêu, mỗi người làm việc bằng hai”, phong trào “ca khúc chính trị” hoặc phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe” của sinh viên, học sinh vùng tạm chiếm… Còn trào lưu (về nghệ thuật) thường chỉ một khuynh hướng nghệ thuật có tính cục bộ, gắn liền với những thủ pháp biểu hiện nghệ thuật riêng của một nhóm, hay một bộ phận nghệ sĩ trong xã hội, đôi khi có thể nâng thành một thứ chủ nghĩa nghệ thuật như trào lưu hiện thực mới, chủ nghĩa cổ điển, trào lưu nhạc Jazz, Rock… Như vậy, nhạc nhẹ Việt Nam không thể nói là một phong trào (quần chúng) hay một trào lưu (nghệ thuật), nó hình thành cũng như sự hình thành của các loại hình biểu hiện nghệ thuật mới như sân khấu chèo mới, tuồng mới, kịch hát mới, dân ca kịch, điện ảnh ca nhạc… Từ những quan niệm nêu trên, có thể đi đến kết luận: Nhạc nhẹ Việt Nam hình thành từ dòng chảy tự nhiên của nghệ thuật ca nhạc Việt Nam, từ ca khúc tiền chiến đến ca khúc thời chiến, từ ca khúc thời chiến đến ca khúc thời bình, từ ca khúc thời bình đến ca khúc chính trị, từ ca khúc chính trị đến ca khúc nhạc nhẹ, như một quy luật tất yếu của lịch sử xã hội và lịch sử nghệ thuật.
3- BÀI BA: 2.2. Ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam - dòng ca khúc mới có tính thể nghiệm. Gọi dòng ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam là một dòng ca khúc ở giai đoạn thể nghiệm, chính vì những khái niệm về nó còn chưa được thống nhất, mọi quan điểm nhận thức về nó còn chưa thật thỏa đáng. Nhất là vấn đề tổng hợp và nghiên cứu nó về mặt nguyên lý “với tính cách Việt Nam” vẫn còn là vấn đề ở phía trước. Bằng chứng là các nhà phê bình lý luận tuy thừa nhận sự tồn tại của nó, nhưng đặt vấn đề mỗi người, mỗi khác. Người thì cho rằng, nhạc nhẹ là nhạc ngoại lai, xa rời tâm lý, tình cảm và thẩm mỹ dân tộc. Người lại nói yếu tố nhạc nhẹ đã có từ thời tiền cổ nhạc, nhen nhóm, ươm mầm trải hàng mấy ngàn năm, đã xuất hiện ở một vài ca khúc trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ (ở dạng thể tình ca). Và cho đến ngày nay, trong hoàn cảnh đất nước hoà bình, việc hình thành một dòng ca khúc nhạc nhẹ là tự nhiên, hợp lý… Về phương diện nhà nước, từ sau năm 1975, khi phong trào ca nhạc nhẹ tự phát, có những thời điểm trở thành “dịch sốt”, thì mãi cho đến năm 1991, liên hoan ca nhạc nhẹ lần đầu tiên mới chính thức được tổ chức (tuy nhạc nhẹ cũng đã được trình làng không chính thức trong liên hoan ca múa nhạc toàn quốc năm 1985 và liên hoan đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 1988). Và cho tới nay, mặc dù giới chức chuyên môn cũng đã chia ra ba dòng nhạc bình đẳng với nhau: dòng thính phòng, dòng dân ca và dòng nhạc nhẹ, nhưng vẫn chưa hề tổ chức đào tạo, tập hợp nghiên cứu cấp quốc gia, đặc biệt là chưa hề có một tuyển tập ca khúc nhạc nhẹ nào được in ấn và phát hành riêng biệt, với tính cách là một tuyển tập ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam(5). Có nghĩa rằng, giờ đây, vấn đề nhạc nhẹ Việt nam, tuy không còn là một “cơn sốt”, nhưng vẫn mang tính thời sự, vẫn còn phải tiếp tục trao đổi, luận đàm, thể nghiệm… cho dù nó đã hiện hữu và mọi thực tiễn sinh động về sáng tác và biểu diễn nhạc nhẹ đang diễn ra khắp nơi, với quy mô và chất lượng ngày càng cao và ngày càng thu hút đông đảo đối tượng công chúng. Nếu chúng ta đang đứng ở thời điểm lịch sử này để chứng kiến sự hình thành của dòng nhac nhẹ Việt Nam, cũng không khác gì mấy so với những ai đã từng chứng kiến phong trào “âm nhạc cải cách”, đêm trước của sự hình thành và phát triển của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Và cái đêm trước của sự hình thành và phát triển đó cũng không thể ít hơn 1/4 thế kỷ! Với nhận thức đó, chúng tôi xin trình bày một số ý kiến về đối tượng còn khá mới mẻ này (nhạc nhẹ Việt Nam). Có một thực tiễn khách quan rằng, khi công luận ít nhiều có những đợt phản kích vào loại hình biểu diễn “nhố nhăng” (theo cách gọi của một số người, trong đó có các nhà phê bình âm nhạc đương thời), được gọi là nhạc nhẹ vào những năm đầu của thập kỷ 80, các nhà quản lý nghệ thuật lại đang kêu gọi sự tìm kiếm một hướng đi đúng đắn cho nhạc nhẹ Việt Nam, thì các nghiên cứu luận về nhạc nhẹ đều đưa ra những nhận xét khá lạc quan về tinh thần nhạc nhẹ dân tộc. Khi nói đến nhạc nhẹ, họ thường gắn chúng với thể loại tình ca, hoặc những ca khúc mang sắc thái trữ tình, kể cả dân ca. Theo đó, một số làn điệu dân ca, cổ nhạc, một số ca khúc sáng tác trong thời kỳ kháng chiến và phần lớn ca khúc sáng tác trong thời bình từ sau năm 1975 đến nay, đều là ca khúc nhạc nhẹ. Căn cứ vào những “định nghĩa” có tính chất khái niệm của từ điển khoa học và từ điển âm nhạc, thì việc các nhà lý luận xếp loại nhạc nhẹ như nói trên là đúng. Nhưng nếu như vậy, thì chẳng cần thiết phải bàn đến nhạc nhẹ và định hướng phát triển cho nhạc nhẹ làm gì, vì trên thực tế, chúng ta đã kế thừa truyền thống cha ông để làm nhạc nhẹ trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Thực ra, hiểu nhạc nhẹ với khái niệm “giải trí, trữ tình” quả không sai, nhưng đến khi thứ âm nhạc đó phát triển vào thời kỳ hiện đại, lại gọi nó là “Hard Rock” (nhạc nhẹ “nặng”), Heavy Metal Rock (nhạc nhẹ “nặng” chất kim loại) thì phải hiểu nó là nhạc “nhẹ” hay nhạc “nặng”. Đã có không ít người nghe chúng (những thể nhạc nhẹ vừa nêu) còn trừu tượng, kịch tính và khó hiểu hơn cả thưởng thức nhạc thính phòng. Và bấy giờ, khái niệm khởi thuỷ không còn có thể lý giải cho loại nhạc nhẹ hiện đại sau này. Vì vậy: a/ Phải hiểu nhạc nhẹ Việt Nam hiện nay là một phương thức biểu hiện ca nhạc mới, thoát ly khỏi ảnh hưởng cấu trúc nhịp điệu, tiết tấu của loại hình ca khúc truyền thống, đặc biệt nó gắn liền với động tác (vũ đạo) của diễn viên (ca sĩ và nhạc công), nghĩa là nhạc đó phải có tính luân vũ, chu kỳ. Và cũng không phải tự nhiên mà những nhà soan nhạc có ý thức, lại ghi vào đầu tác phẩm loại nhạc điệu(7) chỉ định cho tác phẩm của mình, điều này chúng ta không gặp ở những ca khúc thời kỳ trước đây. Các nhạc điệu chỉ định (Swing, Tango, Disco, Blero…) buộc ca sĩ, nhạc công và động tác ngoại hình phải ăn khớp với nhạc điệu quy định, gây một sự hấp dẫn, thu hút, khiến công chúng và diễn viên cùng hoạt động với tất cả niềm hứng thú, say mê. b/ Phải hiểu nhạc nhẹ được thưởng thức không phải bằng trạng thái thụ động, tĩnh tại, suy tư, đạo mạo, nghiêm túc như khi ngồi trong nhà hát nhạc giao hưởng, thính phòng. Mà người thưởng thức nhạc nhẹ phải ở trong một trạng thái chủ động, náo hoạt như sự náo hoạt của sàn diễn vậy. Chính vì lẽ đó mà đối tượng công chúng của nhạc nhẹ chủ yếu là lớp trẻ, điều đó không có gì lạ, trái với tự nhiên và quy luật. Nghĩa là, thanh niên thích nghe (xem) nhạc nhẹ, cũng như trẻ em thích nhạc hát đồng dao, người già thích cổ nhạc, còn lớp trí thức khả ái lại thích thưởng thức nhạc giao hưởng, thính phòng vậy! c/ Phải hiểu nhạc nhẹ ở khái niệm rất mới, dù hiểu nó ở khái niệm “kích thích” trực tiếp vào bản năng, tâm sinh lý con người. Nhưng với lối sống Phương Tây phù hợp với thứ nhạc kích động cuồng loạn, thì lối sống lạc quan của người Việt Nam sẽ có một thứ nhạc nhẹ nhằm tác động vào bản năng vốn hoạt bát, sáng tạo của thanh niên. d/ Ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam phải được hiểu với tính cách nhạc nhẹ, vì đã có những thời điểm, sân khấu nhạc nhẹ xuất hiện những bài hát không sáng tác theo lối nhạc nhẹ, bởi vậy, tác phẩm bị bóp méo, gò ép tới mức kỳ quặc, biểu hiện ở một số điểm chính sau đây: - Sự thay đổi về số nhịp: 2/4 thành 6/8 (Slow), 4/4 thành 2/4 (Disco), 3/8 thành 3/4 (Valsse)… - Sự thay đổi về câu, đoạn: cắt ngắn câu, chia câu phân 2, phân 3, thêm bớt trường độ cho kết câu, kết đoạn. - Sự thay đổi về cấu trúc hình thức: gian tấu ở phần nối đoạn, nhắc lại nhiều lần câu kết đoạn. - Cuối cùng là biểu hiện ở động tác ngoại hình, lối nhả chữ của nhạc nhẹ không phù hợp với nội dung ca từ. Xin lấy ví dụ về ca khúc Tình ca của Hoàng Việt để phân tích minh chứng cho những nhận xét vừa nêu: Trong ca khúc này, từ nguyên tác bản Tình ca chuyển sang bản phổ nhạc nhẹ (theo cách hát), ta thấy có sự thay đổi “nghiêm trọng” về tính chất âm nhạc và ca từ. Nếu ở nguyên tác, bài hát có số nhịp 2/4, với các chùm ba móc đơn, biểu hiện tình cảm dồn nén, sâu sắc thì khi chuyển sang bản phổ nhạc nhẹ, bài hát bị chuyển nhịp thành 6/8, nhạc điệu Slow, các chùm ba móc đơn biến thành ba phách đều đặn, không còn giữ được tính chất âm nhạc như ở nguyên tác. Ngoài ra, số nhịp của mỗi câu cũng bị thay đổi, các nốt trường ngân sẽ căn cứ vào chu kỳ nhạc điệu mà thay đổi độ dài, ngắn. Phong cách biểu diễn của ca sĩ thì cường điệu, uốn éo, và thế là mạch xúc cảm của âm nhạc và ca từ không còn đúng với ý đồ sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Ta còn gặp tình trạng “khiên cưỡng” như đã nói trong một vài ca khúc khác như Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp; Nổi lửa lên em của Huy Du, Tự nguyện của Trương Quốc Khánh… Vì thế, sự nhận cảm về nội dung của bài hát bị “cách điệu” khác xa với cảm xúc của nguyên tác. Điều đó, chứng tỏ rằng, ca khúc nhạc nhẹ không phải là một ca khúc biểu diễn theo lối nhạc nhẹ mà là một ca khúc được tư duy sáng tác theo kiểu (model) nhạc nhẹ. III. NHỮNG KHUYNH HƯỚNG SÁNG TÁC CHỦ YẾU CỦA DÒNG CA KHÚC NHẠC NHẸ VIỆT NAM. Khi bàn đến nhạc nhẹ thì 3 yếu tố cơ bản là: 1.tác phẩm, 2.diễn viên (ca sĩ và nhạc công), 3.Phần hoà phối dàn nhạc - là không thể tách rời. Đó là chưa kể tới những yếu tố như phục trang, âm thanh, ánh sáng, bài trí sân khấu… là những thành tố không thể thiếu cho việc biểu diễn thành công một ca khúc nhạc nhẹ. Bởi vì, chỉ với sự tập hợp đồng thời các yếu tố kể trên, tác phẩm ca khúc nhạc nhẹ mới được công chúng nhận thức một cách trọn vẹn. Bấy giờ, công chúng nhạc nhẹ thực sự thưởng thức bằng động thái: vừa xem và vừa nghe. Tuy nhiên, ở bất cứ loại hình nghệ thuật nào thì yếu tố tác phẩm vẫn là yếu tố chủ đạo, hàng đầu, có tính quyết định. Không có tác phẩm tốt thì tài năng của ca sĩ và dàn nhạc cũng không thể làm cho nó trở nên giá trị hơn. Một tác phẩm “tồi” với ca sĩ và dàn nhạc “siêu hạng” thì nó chỉ có thể bị “chìm ngập” trong sự hào nhoáng, lộng lẫy của phục trang, bài trí sân khấu, âm thanh, ánh sáng… và những hiệu quả do tài năng phô diễn của ca sĩ và nhạc công mang lại. Bấy giờ, công chúng nhạc nhẹ chỉ có thể: xem mà không nghe.
3- BÀI BA: ợng công chúng của nó được mở rộng. Nguyên do là ở chỗ, ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam không chỉ thuần tuý coi việc khai thác tiết tấu sôi động của nhịp sống công nghiệp hiện đại làm cốt lõi, mà cái chính là để biểu đạt tâm hồn, tình cảm, tư duy và thẩm khiếu âm nhạc của người Việt trong cuộc tiếp biến với âm nhạc quốc tế. Điều này được biểu hiện khá rõ nét trong việc tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm một loại hình ca khúc nhạc nhẹ mới, đúng nghĩa là nhạc nhẹ Việt Nam - đó là khuynh hướng Folk Rock (Rốc dân ca). 3.2. Khuynh hướng khai thác chất liệu âm nhạc dân gian. Có thể nói, khuynh hướng sáng tác nhạc nhẹ dựa trên âm điệu và tiết tấu dân ca, dân nhạc Việt Nam, hình thành có muộn màng hơn, nhưng với một số tác phẩm thể nghiệm khá thành công của nhạc sĩ Việt Nam như các ca khúc Ơi M’drak, Một nét ca trù ngày xuân của Nguyễn Cường; Tíếng trống Baranưng, Tuỳ hứng ngựa ô của Trần Tiến; Hạt mưa mùa xuân của Trương Ngọc Ninh; Đất nước lời ru của Văn Thành Nho; Mưa cao nguyên của Linh nga Niek Đam… càng chứng tỏ, khuynh hướng “dân gian hoá” nhạc nhẹ là con đường để hình thành một dòng ca khúc nhạc nhẹ đúng nghĩa “với tính cách nhạc nhẹ Việt Nam”. Dù ở bất cứ loại hình nghệ thuật nào, thì việc khai thác chất liệu dân gian để xây dựng tác phẩm, đều có ý nghĩa to lớn trong việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của quốc gia, dân tộc. Lịch sử âm nhạc thế giới cũng đã từng ghi nhận tên tuổi và sự nghiệp sáng tác của các nhạc sĩ tiền bối mà con đường sáng tạo nghệ thuật của họ, luôn luôn gắn liền với nền dân ca, dân nhạc truyền thống. Còn ở nước ta, dù rằng, khuynh hướng sáng tác theo phương pháp và kỹ thuật Phương Tây vẫn còn đang phát triển mạnh, nhưng điều đáng mừng là những khúc hát, bản đàn sáng tác dựa trên âm hưởng dân tộc ngày càng nhiều thêm, được công chúng nồng nhiệt đón nhận và luôn có sức sống lâu bền trong đời sống ca nhạc nhân dân. Việc kế thừa và phát huy truyền thống dân ca, cổ nhạc trong sáng tác âm nhạc mới Việt Nam đã đành không phải là việc làm đơn giản, lại càng khó khăn hơn khi dùng chất liệu âm nhạc dân gian để xây dựng tác phẩm nhạc nhẹ. Nhưng thực tiễn sáng tác sinh động chứng minh được rằng: khuynh hướng sáng tác nhạc nhẹ theo kiểu Folk Rock, đã thực sự hình thành và đang là mảnh đất thử thách tài năng và tâm huyết của các nhạc sĩ sáng tác. Ngoài việc khai thác sử dụng chất liệu các bài bản hát lượn, hát văn, huê tình, giao duyên, ví, lý… vốn dĩ đã trở thành truyền thống trong sáng tác ca khúc, thì yếu tố tiết tấu, âm điệu dân gian, từ lối diễn trò hài hước, dí dỏm, có tính hội hè, đình đám của người Kinh, đến các điệu nhảy hoang dã, những tiếng hô, hú và âm thanh kỳ bí của những chiêng đồng, não bạt trong tế lễ “vạn vật hữu linh” của các dân tộc Việt Nam, là nguồn chất liệu vô tận để các nhạc sĩ khai thác, chắt lọc, đưa vào bản phổ nhạc nhẹ của mình. Một trong những ca khúc sáng tác theo khuynh hướng Folk Rock đáng được kể tới, đó là Tuỳ hứng ngựa ô của nhạc sĩ Trần Tiến. Cũng vẫn dựa trên cơ sở lối cấu trúc hình thức hai đoạn đơn phổ biến, với cơ cấu chu kỳ nhạc điệu Disco, Trần Tiến đã sử dụng kiểu phóng tác tuỳ hứng từ cảm thức tinh tế trên làn điệu dân ca Lý ngựa ô - một điệu lý Nam bộ, có tính chất dí dỏm, tinh nghịch, pha chút hài hước. Đặc biệt, tác giả đã khéo vận dụng sáng tạo mô típ mở đầu của làn điệu lý này, để đưa vào giai đoạn cao trào của tác phẩm (đoạn II). Cũng vẫn theo khuynh hướng “rốc dân ca”, nhạc sĩ Nguyễn Cường trong ca khúc Ơi M’drak lại khai thác tiết tấu dân nhạc Tây Nguyên (tiếng khèn Đing Năm), đặc biệt là việc mô phỏng lối biểu trưng độc đáo của âm điệu thổ ngữ Tây Nguyên. Ơi M’drak đã tạo được một khung cảnh mênh mang của núi rừng, và ở đó, ta như nghe thấy tiếng ngân nga, huyền diệu của đại ngàn, những tiếng hú dài, cao vút, tột cùng của xúc cảm, cái xúc cảm của con người thiết tha với mảnh đất vốn dĩ hoang sơ mà tràn đầy tự do, kiêu hãnh. Nhạc sĩ Nguyễn Cường còn khéo léo vận dụng hình thức một đoạn đơn phổ biến trong dân ca, dân nhạc người Việt, để rồi từ đó, chắt lọc tinh tuý chất liệu âm nhạc, tính cách con người, vẻ đẹp hùng vĩ của cao nguyên, để tạo nên một M’drak cực kỳ sinh động và điển hình. Với phần coda (để kết) ngắn ngủi, chỉ bằng hư từ không nghĩa, lại có ý nghĩa vô cùng, bởi vì toàn bộ xúc cảm của ca khúc Ơi M’drak, được đọng lại từ chính coda ngắn ngủi này. Với hai ca khúc tiêu biểu vừa nêu, ta bắt gặp một điều ngẫu nhiên rằng: chính tiết tấu và âm điệu của các loại hình dân ca, dân nhạc mà các tác giả đã khai thác, vận dụng trong tác phẩm ca khúc của mình, lại chứa đựng “tính nhạc nhẹ” khá cao. Cũng vì lẽ đó mà ca khúc Tuỳ hứng ngựa ô của Trần Tiến vàƠi M’drak của Nguyễn Cường, được đông đảo công chúng ca nhạc ngưỡng mộ và cảm thụ thật tự nhiên như chính họ đã cảm thụ những bài hát dân gian Việt Nam vậy. Chứng tỏ, yếu tố âm điệu, tiết tấu dân gian là mảnh đất màu mỡ cho sự ươm mầm, nảy sinh và phát triển của mọi thể loại âm nhạc, kể cả thể loại ca khúc nhạc nhẹ. Qua tìm hiểu những ca khúc nhạc nhẹ sáng tác theo khuynh hướng Folk Rock, có thể nêu một số nhận xét tóm tắt như sau: - Vẫn sử dụng chu kỳ nhạc vũ điệu, nhưng khai thác tiết tấu dân gian để thay thế cho các loại âm hình tiết tấu thông dụng của nhạc vũ điệu quốc tế. - Ngoài việc sử dụng cấu trúc hình thức hai đoạn đơn, khá phổ biến trong âm nhạc Phương Tây, các nhạc sĩ còn vận dụng kiểu cấu trúc hình thức một đoạn đơn, phổ biến trong dân ca, dân nhạc người Việt. - Sử dụng chất liệu của các làn điệu dân ca, dân nhạc trong tiến hành giai điệu. Tóm lại, khuynh hướng sáng tác ca khúc nhạc nhẹ dựa trên sự khai thác các thành tố của âm nhạc dân gian như âm điệu, tiết tấu, cấu trúc hình thức tác phẩm… là một hướng đi đúng đắn để hình thành một nền nhạc nhẹ của chính dân tộc mình. Mặt khác, khuynh hướng sáng tác nhạc nhẹ bám sát nền tảng dân ca, dân nhạc còn là một biểu hiện của sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa yếu tố “bản sắc” và yếu tố “tiên tiến”, làm cho yếu tố “bản sắc” hòa quyện và phát huy trong yếu tố “tiên tiến” - Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để nền âm nhạc Việt Nam có khả năng hội nhập và tồn tại, tồn tại và phát triển, trong mối quan hệ hợp tác mang tính toàn cầu hiện nay. IV. THAY CHO PHẦN KẾT. 4.1. Một đối tượng nghiên cứu còn mới mẻ. Nhạc nhẹ Việt Nam là một đối tượng nghiên cứu còn khá mới mẻ và chưa thể nói là một đối tượng âm nhạc đã hoàn thiện, nên dù bằng con đường tiếp cận nào (phương pháp tiếp cận), giới hạn tiếp cận nào (lược khảo hay đặc khảo), cũng chỉ có thể nêu được những vấn đề có tính gợi dẫn. Bởi vậy, bằng con đường tiếp cận đi từ bối cảnh xã hội (tác nhân), đến thực tiễn sáng tác ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam (khuynh hướng), khó có thể nói, bài viết đã tổng quan được toàn bộ vấn đề theo dự định. Trên thực tế, hoạt động sáng tạo và biểu diễn nhạc nhẹ Việt Nam trong suốt hơn hai thập kỷ qua, còn phong phú, sinh động hơn nhiều so với nhận thức của một đơn thể nghiên cứu - Đó là sự ra đời của các tác phẩm nhạc nhẹ quy mô như nhạc múa Dòng sông lửa của Cao Việt Bách - Trần Đình Quý; ca nhạc kịch Thạch Sanh của Đức Minh… Đó là sự hình thành các phong cách biểu diễn nhạc nhẹ ngày càng chuyên nghiệp hóa của Ái Vân, Lệ Quyên, Cẩm Vân, Ngọc Bích, Y’Moan… (thập kỷ 80), của Thanh Lam, Hồng Nhung, Thu Phương, Ngọc Anh, Phương Thanh… (thập kỷ 90)… Đó là các giải thưởng dành cho ca sĩ Việt Nam trong các liên hoan nhạc nhẹ quốc tế. Đó là sự ra đời của hàng chục ban ca nhạc nhẹ chuyên và không chuyên trong phạm vi cả nước, với phương pháp hòa âm, phối khí ngày càng nhuần nhuyễn, điêu luyện như Cầu vồng, Phương Đông, Hoa sữa, Đồng hồ báo thức, Tam ca 3A, Năm dòng kẻ, Tik Tik Tak… Mặt khác, thực tiễn sáng tác và biểu diễn nhạc nhẹ Việt Nam sinh động tới mức không phải bao giờ cũng có thể dùng “khuôn lý, thước lời” và tri thức “Đông - Tây bác cổ” để bình phẩm được thấu đáo, vì một lý do không thể không nhắc đến, đó là tính “không mẫu mực”, tính “Fantasia” (tuỳ hứng, ngẫu hứng) của nhạc nhẹ(10) - Nếu đánh mất yếu tố đó, nhạc nhẹ sẽ không còn tồn tại với tư cách của nhạc nhẹ. 4.2. Một nhu cầu thẩm mỹ mới cần được quan tâm. Thực tiễn đời sống ca nhạc của nhân dân trong suốt hàng chục năm qua, nhất là từ khi nước ta thực hiện chủ trương mở cửa, giao lưu quốc tế rộng rãi, thì điều kiện để tiếp cận với các loại hình âm nhạc hiện đại thế giới, ngày càng trở nên phổ biến hơn. Cũng không thể không thừa nhận rằng, đã có những thời điểm, công chúng ca nhạc chịu sự lôi cuốn ào ạt của nhiều đợt sóng ca nhạc hải ngoại, nhạc nhẹ quốc tế, kể cả những khuynh hướng nhạc nhẹ Phương Tây đang rơi dần vào ngõ cùng của sự tha hoá. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện thời, đời sống ca nhạc của nhân dân đang cần thiết những “món ăn” hợp với trình độ thẩm mỹ đương thời. Và tình trạng lan tràn của các loại hình âm nhạc nước ngoài vào Việt Nam, trong một chừng mực nào đó, đã chứng tỏ “thị trường âm nhạc” Việt Nam đang khan hiếm “hàng nhạc” hợp với nhu cầu. Vì vậy, việc tìm kiếm những phương tiện biểu hiện mới, trong đó có nhạc nhẹ, là một nhu cầu cấp thiết, đáp ứng được thẩm khiếu của đời sống ca nhạc nhân dân. 4.3. Bản sắc dân tộc là yếu tố hàng đầu. Nhạc nhẹ đã là một sinh hoạt âm nhạc, tồn tại trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Việt Nam. Và loại hình ca nhạc đó, về mặt bản chất là có tính khả thi, hữu dụng, có tính thị hiếu và doanh lợi. Lại nữa, cũng cần phải thừa nhận rằng, nhạc nhẹ ngày càng thu hút đông đảo đối tượng công chúng, nhất là thanh niên (bộ phận chủ lực của xã hội) - đó là điều đáng mừng. Nhu cầu về nhạc nhẹ không chỉ xuất phát từ nhận thức nội tại, bó hẹp trong phạm vi quốc gia, dân tộc, mà nó còn mang tính khu vực hoá, quốc tế hóa thẩm mỹ đương thời, nhất là trong thời đại thông tin phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng, khi trình độ văn minh của các quốc gia, dân tộc được hội nhập, thì tồn tại dân tộc không thể bằng phương tiện sống, trình độ sống, mà chính bằng sự tồn tại của một nền văn hoá có bản sắc, không nhầm lẫn với bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Chính vì lẽ đó mà xu hướng thời đại hoá, quốc tế hoá là một tất yếu khách quan. Nhưng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, là con đường duy nhất để tồn tại và tồn tại trong sự phát triển. Như vậy, yếu tố bản sắc trong sáng tác nhạc nhẹ là yếu tố cần được quan tâm hàng đầu. 4.4. Thể nghiệm và dữ kiện. Những thể nghiệm bước đầu trên con đường xây dựng một nền nhạc nhẹ dân tộc Việt Nam, tuy đã và đang gặt hái được những thành quả nhất định. Nhưng có thể nói, lối viết nhạc, diễn nhạc theo thị hiếu cấp thời vẫn còn khá phổ biến. Tuy không còn là “cơn sốt”, nhưng nhạc nhẹ Việt Nam vẫn còn chưa thoát ly hẳn tình trạng lặp lại khuôn mẫu, lối tiến hành giai điệu, tiết tấu của các trào lưu nhạc nhẹ Phương Tây từ những thập niên trước đây. Do vậy, việc đặt vấn đề khai thác kho tàng phong phú các làn điệu dân vũ nhạc, múa hát dân gian, chứa đựng khá nhiều yếu tố về tiết tấu, âm điệu, vũ điệu nhạc nhẹ, là dữ kiện tốt nhất để xây dựng thành công một nền nhạc nhẹ Việt Nam. 4.5. Điều chỉnh thẩm mỹ âm nhạc. Tuy vậy, công chúng ca nhạc Việt Nam không phải tất thảy là đối tượng của nhạc nhẹ, và đối tượng công chúng nhạc nhẹ (lớp trẻ) cũng không hẳn xem nhạc nhẹ là “món ăn” duy nhất của họ. Vì lẽ đó mà việc tìm hiểu, nghiên cứu và những đề dẫn về con đường phát triển của nhạc nhẹ Việt Nam, không phải là sự tôn vinh nhạc nhẹ lên vị trí độc tôn. Ngược lại, chính sự ngưỡng mộ của công chúng đối với nhạc nhẹ, mà các nhà sáng tạo nghệ thuật và giới chức quản lý nghệ thuật càng cần thiết phải điều chỉnh thẩm mỹ âm nhạc bằng sự phát huy, phát triển đồng thời các loại hình biểu diễn nghệ thuật như thanh nhạc, khí nhạc, tân nhạc, âm nhạc truyền thống, âm nhạc hiện đại… để xây dựng đời sống ca nhạc nhân dân ngày càng phát triển phong phú và lành mạnh. 4.6. Tính tất yếu và điều kiện tiên quyết. Cuối cùng, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: sự hình thành dòng ca khúc nhạc nhẹ Việt Nam là một tất yếu của lịch sử xã hội và lịch sử âm nhạc Việt Nam. Tuy nhiên, con đường để hình thành bền vững một nền nhạc nhẹ dân tộc trong tương lai, chắc chắn, sẽ còn nhiều gai góc, còn nhiều đấu tranh quyết liệt, còn đòi hỏi tâm huyết của nhiều thế hệ nghệ sĩ, sự quan tâm hưởng ứng của đông đảo công chúng âm nhạc và trên hết là một định hướng chiến lược quốc gia. Với sức mạnh tổng hợp và toàn diện đó, dòng nhạc nhẹ mới thực sự trở thành một hương sắc tươi thắm, trong vườn hoa trăm sắc của nền âm nhạc bản sắc Việt Nam./. Thân Văn * Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 8 và số 9/2003 Bài hát Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (đổi hướng từ Ca khúc)
Mình đọc và thấy Tiêu đề của Timekiller thấy hay quá .Nhưng lời mời của Tiểu Thương thì mình ko dám nhận vì đang bận ...Đến nỗi có hôm ngủ quên từ chập tói đến gần 11h đêm mới dậy .Mong Tiểu Thương thông cảm và chọn người khác vậy .
GỬI BÁC NGUYỄN CÔNG ĐÌNH (Nick: LAMTYTHOI)-HAMSAY68-MOD9 Dạ bác Đình bận đành thôi Ham-Say cùng Ới-Giời-Ơi ngon rồi Nhắn đến “MOD-9” một nhời E-Mail Thương gửi tới người hay chưa? Mục này mai tin nhớ đưa Nội dung thư đó và cho mấy lời Bây giờ Thương nhắn chậm rồi Thông cảm mong các bạn vui là mừng. P/S: Mod9- Ới Giời ơi nhớ hộ Thương nha.
GỬI CẢ NHÀ ĐÁP ÁN CÂU ĐỐ Thương gửi Mod9 từ 6/10/2017 trích đăng sau đây. Bây giờ cả nhà chờ BGK chấm, Mod9 thông báo kết quả và Bách Bé Bỏng trả thưởng nhé. I- Thư gửi Mod9 ngày 6/10: GỬI MOD9 1/ Tiểu Thương có câu đố “CA KHÚC VIỆT KHÁC GÌ?” = “ĐẶC ĐIỂM CA KHÚC VIỆT” đăng ở mục “Nhạc Vàng ngày mưa” – Tiêu Dao Hội; Mục “Mỗi ngày 1 câu đố” – Giao lưu giải trí; Face book “Hội Yêu Chắn”. 2/ Tiểu Thương nhờ MOD9, bác Đình (Lamtithoi), Hồ Việt (hamsay68) làm Giám khảo. Chưa thấy ai trả lời đồng ý đâu! 3/ Do vậy từ hôm ấy có định gửi MOD9 đáp án chấm cho công bằng. Vậy hôm nay gửi nhé. Có gì hỏi thêm Tiểu Thương cho rõ. Mình trích đăng lại các phần liên quan. Nguyễn Tiểu Thương. ĐÁP ÁN CÂU ĐỐ 4: “CA KHÚC VIỆT KHÁC GÌ?” “Ca Khúc Việt” - “Tiếng Việt Nam” Điểm đầu tiên “khác ngoại bang” rõ rồi Phương Tây từ “nhạc đến lời” Phương Đông ngược lại “viết lời – ký âm” “Sáu Thanh – Sáu Dấu”: Việt Nam Nên “Ca Khúc Việt” ngút ngàn thanh âm Hàng vạn thứ tiếng nhân gian Từ “Nói đến Hát”: Việt Nam tuyệt vời Ba điểm đơn giản vậy thôi Để “Ca Khúc Việt” khác người Năm Châu Còn so thời thế trước sau Mỗi người mỗi ý dám đâu phê người “Hai Phần” rõ thế bạn ơi “Phần Ngoại Bang” – “Phần Mỗi Thời” tường minh Một Tuần trôi thật là nhanh “Đề dễ - Giải khó” thôi đành thương thân Tiểu Thương ắt hẳn hâm hâm Riêng một cách nghĩ “mê tâm loạn thần”? GIẢI đành giữ lại cho làng... -P/S: Đề bài và Đáp án: “ Ca Khúc Việt khác gì?”: 1-So với Năm Châu (đặc điểm)? Có ba điểm = Tiếng Việt + Cách sáng tác(có lời rồi mới viết nhạc) + Tiếng Việt có 6 thanh(6 dấu) . 2-So với chính nó (tùy thời)? Có một điểm = Tùy quan điểm mỗi người. II- Thư gửi Mod9 ngày 8/10: KÍNH GỬI BAN GIÁM KHẢO VÀ THƯ KÝ CUỘC THI TRẢ LỜI CÂU ĐỐ “CA KHÚC VIỆT”. 1-Ý KIẾN CHUNG VỀ BÀI DỰ THI: A-PHẦN LỚN BẠN DỰ THI CHƯA HIỂU RÕ ĐỀ(HOẶC DO ĐỀ KHÔNG RÕ) NGAY TỪ VIỆC PHÂN TÍCH “ CA KHÚC VIỆT KHÁC GÌ?” SO VỚI “CA KHÚC NGOẠI QUỐC”? KHÁC GÌ VỚI CHÍNH NÓ Ở CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ TRƯỚC? B- PHẦN LỚN BẠN DỰ THI LẠC ĐỀ : ĐÁNG LẼ ĐI TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM, PHÂN TÍCH SỰ GIỐNG KHÁC CỦA “CA KHÚC VIỆT” LẠI THÀNH CỦA “ÂM NHẠC VIỆT” HOẶC “CA SĨ VIỆT”. 2-NÊU LẠI BỐN Ý CẦN NÊU TRONG ĐÁP ÁN ĐỂ CHẤM (Bốn Ý trong bài dự thi nếu có): A-BA ĐẶC ĐIỂM CỦA “CA KHÚC VIỆT” TẠO RA SỰ KHÁC BIỆT VỚI “CA KHÚC NGOẠI QUỐC”: -THỨ NHẤT: VIẾT, HÁT BẰNG “TIẾNG VIỆT”. -THỨ HAI: PHẦN LỚN CA KHÚC ĐƯỢC VIẾT LỜI RỒI MỚI PHỔ NHẠC . -THỨ BA: TIẾNG VIỆT CÓ 6 THANH ĐIỆU (CÓ SÁU DẤU) NÊN “CA KHÚC VIỆT” ĐƯỢC HÁT LÊN BẰNG THỨ TIẾNG CÓ ÂM ĐIỆU KHÁC BIỆT. ·Các bạn tham gia trả lời đều không nêu được BA ĐẶC ĐIỂM NÀY (3 Ý NÀY). MỖI Ý 2,5 ĐIỂM. B-“CA KHÚC VIỆT” HIỆN NAY KHÁC GÌ SO VỚI “CA KHÚC VIỆT” CÁC THỜI TRƯỚC: ĐIỂM NÀY THUỘC QUYỀN ĐÁNH GIÁ TỰ DO CỦA BẠN DỰ THI, THEO Ý KIẾN RIÊNG, CỐT YẾU LÀ CÓ THẤY SỰ KHÁC NHAU CỦA “CA KHÚC VIỆT” QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ. ·ĐIỂM NÀY (Ý NÀY): Các bạn tham gia cứ đề cập đến đều coi như là có điểm (2,5 ĐIỂM) dù là đầy đủ hay còn thiếu. Đây là Đáp Án mở, tôn trọng quyền tự do của Thí Sinh, cốt là có đề cập đến. 3-ĐÁP ÁN MẪU: A-“Ca Khúc Việt” có 3 đặc điểm khác “Ca Khúc ngoại quốc”: 3x2,5 điểm=7,5 điếm. 1-Viết, hát bằng TIẾNG VIỆT. 2-Có lời hát rồi mới được phổ nhạc. 3-Tiếng Việt có 6 dấu (6 thanh điệu phân biệt so với các thứ tiếng khác). B-Lịch sử Ca Khúc Việt: 2,5 điểm. -“Ca Khúc Việt” hiện nay khác gì so với chính nó, hay các giai đoạn của “Ca Khúc Việt”: Điểm này là “Đáp Án Mở”, chấp nhận mọi quan điểm của Thí Sinh, cốt là có đề cập đến. 4-TỔNG HỢP TRẢ LỜI CỦA CÁC BẠN THAM GIA CÂU ĐỐ : Trong mục “ Mỗi Ngày Một Câu Đố” và trong Face book “Hội Yêu Chắn” ngày 2/10/2017. 5-TÀI LIỆU THAM KHẢO: (trong mục Nhạc Vàng Những Ngày Mưa-Tiêu Dao Hội). a-Định nghĩa về CA Khúc. b-Các Ca Khúc lừng danh Thế giới mấy năm qua. c-Các bài viết về Ca Khúc, Nhạc Nhẹ VN . d-Ý kiến trao đổi với Mod9 trước khi chấm bài.(email đáp án). 6-ĐỀ NGHỊ: a-Tiểu Thương nhờ bác Nguyễn Công Đình (Làm Tí Thôi), chú Hồ Việt (Hamsay68), cháu Phạm Thúc Phương (Mod9- Ới Giời Ơi) chấm điểm cho các bài tham gia. -Mod 9 tổng hợp Điểm chấm của BA Giám Khảo thành kết quả cuối cùng . Gửi kết quả cho Bách Bé Bỏng (thư ký) để Tặng Bảo Giải Thưởng cho các bạn. b-Tiểu Thương nhờ Bách Bé Bỏng chuyển giải thưởng đến cho mọi người nhé. -Có kết quả của Ban Giám Khảo Tiểu Thương sẽ chuyển ngay Bảo cho Bách. 7-Nguyễn Tiểu Thương gửi email này cho Mod9, đến 14 giờ ngày 9/10/2017 sẽ công bố trên Các Mục trong Diễn Đàn Sân Đình và Face “Hội Yêu Chắn” để bạn dự thi tiện theo dõi. -Mod9 ơi, chú Thương không biết gói File đâu nên cứ để email dài long thong vậy thôi. Nguyễn Tiểu Thương. III- Thư gửi Mod9 ngày 8/10- 22 giờ GỬI MOD 9 Tiểu Thương không biết gói File nên không đưa được tư liệu về Ca Khúc, Nhạc Nhẹ VN vào Diễn Đàn “Nhạc Vàng Những Ngày Mưa”- Tiêu Dao Hội và Diễn đàn “Mỗi ngày 1 câu đố”. Vậy nhờ Mod 9 cho tư liệu sau đây lên đó mọi người tham khảo cùng với Đáp án chấm thi. Nếu mai Hồ Việt- HamSay68 không có ý kiến gì, Mod9 cứ dựa vào tiêu chi Điểm, Ý Tiểu Thương gửi và chấm bài dự thi cho mọi người. Không có bài đoạt giải nhất cũng chẳng sao mà. Có Giải Nhì và KK là được. Mọi người tham gia (hơn chục người) cứ cho được KK hết, trừ người đoạt giải cao hơn nhe. Mình sẽ gửi Bảo cho BÁch Bé Bỏng trao thưởng bên Face Book Hội Yêu Chắn cho vui. Đến 14 h00 ngày mai là Có Kết Quả được rồi. Cố gắng tí, cho anh em vui thôi mà. Mục Mỗi Ngày Một Câu Đố của Mod9, Tiểu Thương tham gia lần này là Câu đố thứ 4 mà ko ai đoạt giải Nhất cả, chưa hợp hay khó quá nhỉ. Khi có đáp án thấy cũng bình thường mà! Nguyễn Tiểu Thương. Anh em tự chấm bài thi của mình theo đáp án trên được mà!
I-CÁC Ý KIẾN THAM GIA GIẢI NGHĨA, BÌNH LUẬN CÂU ĐỐ: C-BÀI DỰ THI TRONG DIỄN ĐÀN SÂN ĐÌNH.COM: 1-Bài của TỬU THẦN : 16H58’ Ngày 2/10/2017: ( Đăng ở Nhạc Vàng Những Ngày Mưa-TDH và Mỗi Ngày Một Câu Đố). Sấm thật ly kỳ, hì hì Thánh Thơ nức tiếng thảo thơm Mênh mông tình cảm, thiệt hơn chẳng màng Một hai câu đố làng nhàng Vò đầu bứt tóc, đầu hàng chịu thua Chợt đâu tiếng sấm bất ngờ, Hình như lời giải tỏ mờ ngay đây Đề bài, gợi ý sâu dày Đỏ nơi Bắc thuộc, Vàng bay Nam Kỳ Đó là khi nước phân ly Trải qua hai cuộc trường kỳ chiến công Bắc Nam máu chảy thành sông Tự do độc lập đã không hão huyền Mỗi thời nhạc lý tuyên truyền Sắc dù xanh đỏ, đòi quyền ấm no Năm mươi năm đã tự do Thời nay đã khác, nhạc mò lên ngôi Chẳng còn màu sắc gì rồi Hư không đặc điểm, Idol thay phiên Có chăng một vài cái tên Bài ca còn đấy, chừng quên người dùng Thơ trên luận chỉ đôi dòng Thánh Thơ thông hiểu đồng lòng với em Đúng sai thật chẳng dám xem Chỉ mong đồng cảm nỗi niềm người xưa 2-Bài của TIMKILLER: 18h28’ Ngày 2/8/2017 (Đăng ở Nhạc Vàng Những Ngày Mưa-TDH). Đầu bài bác đã đặt ra Rằng nhạc Tây khác nhạc Ta thế nào? Nhạc Tây lúc "rốc" (Rock) ồn ào Lúc sâu "ba lát" (Ballad) lúc trào "rồ man" (Romance) Nhưng không rầu rĩ khóc than Hoặc hô khẩu hiệu như hàng nhạc Ta Từ giai điệu đến lời ca Hàn lâm trừ những thằng cha "ráp" (Rap) đường Vượt qua cuộc chiến đau thương Tinh hoa nhạc Đỏ còn vương đến giờ Nhạc Vàng ướt át mộng mơ Tuy hơi uỷ mị nhưng thơ vô cùng Sóng Xanh một thuở lẫy lừng Trào lưu nhạc Trẻ tưng bừng khá lâu Nhạc nay hướng đến trẻ trâu Quanh đi quẩn lại vài câu vô hồn Đạo lời đạo nhạc tưởng khôn Hát hò thì ít khoe trôn thì nhiều Bài hay có được bao nhiêu Lại trầm giống Nhật hoặc phiêu như Hàn Dở hay nào dám luận bàn Chỉ xin giám khảo một tràng vỗ tay. 3-Bài của VECHAIBINHDUONG : 2h28’ ngày 3/10/2017 (Đăng ở Nhạc Vàng Những Ngày Mưa-TDH). Thuần Việt- chắc chỉ dân ca Xanh- đỏ- vàng có chút là hơi lai Nhạc trẻ giờ thật bi ai Khoe mông khoe ngực khoe hai cái đùi Nhạc đỏ thường mạnh mẽ - vui Hừng hực khí thế chôn vùi xâm lăng Lãng mạn sâu lắng nhẹ nhàng Nhân sinh tình ái nhạc vàng thường ghi Âm nhạc cũng có lúc chỉ là nói lên tâm tình, nói lên hoàn cảnh hiện tại, có lúc phải chạy theo thời cuộc, có lúc lại kéo con người ta trở về sự tốt đẹp, có lúc là công cụ cho các mục đích khác nhau, có lúc lại chỉ đơn giản là sự nhẹ nhàng du dương... Quan điểm của vechai đơn giản, mình có quyền thích và nghe những gì mình thấy có ý nghĩa, thấy đc cái hay, hoặc sau khi tìm hiểu mà thấy nó hay. Còn cái mình thấy không hay vs mình, biết đâu nó hay vs người khác. Thật khó mà nói mọi người nên nghe thứ mà mình thích, ko nên nghe thứ mà mình không thích. Nhưng có một sự thật, trải qua mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc sống, được trải nghiệm, được dày thêm sự trưởng thành, thì người ta sẽ tự biết cái nào hay- dở (tất nhiên có những người, dù ở tuổi nào thì ngta nghe nhạc cũng chỉ là nghe cho có với người khác chứ chả quan tâm hay chả hiểu mình nghe cái gi)... Ví dụ xưa kia em rất ghét nghe mấy thứ mà cứ hú hu... chát bùm bùm, đêm qua nằm mơ giữa trời... nghe nó nhạt thếch... nhưng nhìu lúc nghe lại thấy về ngôn từ nó nhạt, nhưng phần nhạc thì cũng đc... dù ko thích nhưng cũng ko còn ghét cay ghét đắng như trước. Em thì thích và chú trọng phần ngôn từ trong ca khúc nhiều hơn phần nhạc, nên thích nhạc vàng, các tình khúc nhẹ nhàng sâu lắng hơn... 4-Bài của HUNGNGODUC : 12H18’ Ngày 3/10/2017 (Đăng ở Mỗi Ngày Một Câu Đố). Sự thay đổi của xu hướng âm nhạc qua các thời kỳ phát triển của đất nước là điều tất yếu. Ở nước ta trải qua 2 cuộc kháng chiến, 2 miền đất nước bị chia cắt, tại thời điểm đó tại miền Nam nhạc vàng ( nhạc sến) rất thịnh hành, tại miền Bắc lại là những ca khúc cách mạng ( nhạc đỏ). Sau thời kỳ kháng chiến là những ca khúc ca ngợi sự phát triển của đất nước. Và hiện nay khi xã hội ngày càng phát triển theo xu hướng hiện đại hoá thì âm nhạc cũng theo hướng hiện đại ( nhạc điện tử ), Tuy vậy dù trải qua các thời kỳ, các dòng nhạc đều lấy cảm hứng từ tình yêu quê hương đất nước, yêu con người, lời các bài hát đều mong muốn lột tả chân thực cuộc sống của con người. Bên cạnh đó vẫn tồn tại một xu hướng âm nhạc thị trường, với những ngôn từ sáo rỗng nhưng có giai điệu máu lửa ( bốc). Thời gian vừa qua thì dòng nhạc vàng trữ tình lại có xu hướng phát triển mạnh với hàng loạt các chương trình game show như " thần tượng bolero, tình Bolero ..." và các ca khúc trong các chương trình cũng đều thể hiện tình yêu quê hương đất nước , con người . Có một chương trình truyền hình lại gợi lại những ca khúc cách mạng, đó là " giai điệu tự hào". Có thể nói điểm giống nhau giữa các xu hướng âm nhạc là đều ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người. Điểm khác nhau chỉ là qua các thời kỳ các xu hướng âm nhạc có giai điệu , nhạc điệu khác nhau. Đó là theo những gì cháu tìm hiểu ạ
BÀI DỰ THI ĐĂNG TIẾP D-BÀI DỰ THI TRONG FACE BOOK : “HỘI YÊU CHẮN” 1-Bài của @Đoàn Xuân Thời : 14h10’ Ngày 2/10/2017: -Đoàn Xuân ThờiNhạc vàng là tên gọi dòng tân nhạc việt nam ra đời trong thập niên 60 với ca từ trữ tình bình dân được viết trên những giai điệu chậm buồn đều đều( bolero, rumba.....) âm hưởng dân gian hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm. -Đoàn Xuân ThờiTác phẩm điệu rumba đầu tiên là " trăng sơn cước" của Văn Khôi, Văn Phụng năm 1949 Tác phẩm mang giai điệu bolero đầu tiên là của nhạc sĩ Lưu Trọng Nguyễn manng tên" nắng chiều" năm 1952 -Đoàn Xuân ThờiNhững ca khúc ngày xưa có ca từ giản dị dễ thuộc dễ nhớ nhưng đi sâu vào lòng người ý nghĩa sâu sắc Bây giờ, do sự phát triển của xã hội, những ca khúc mới mang tính " công nghiệp" nhiều hơn. Sự đa dạng về dòng nhạc, phong cách viết khiến nhạc sĩ dễ dàng viết nhạc mà không chú trọng đến nội dung ca từ. Thêm 1 sự khác biệt nữa là ca sĩ ngay xưa hát chỉ một mình với cái micro không có vũ công hay hòa khí. -Đoàn Xuân ThờiTheo mình nghĩ thì điểm khác biệt lớn nhất giữa nhạc Việt và nhạc nước ngoài là dòng nhạc : dân gian Dân gian nam bộ, bắc bộ, chèo, tuồng, cải lương, ca trù, hát bội , hát nói... đều thể hiện quan điểm, lối sống, tín ngưỡng của người việt. -Đoàn Xuân ThờiNói thêm: Nhạc đỏ, nhạc vàng, nhạc trữ tình hay nói chung là tân nhạc Việt đều có sự giao thoa với âm nhạc nước ngoài. Sau hàng chục năm tồn tại và phát triển, bây giờ có sự đồng điệu về giai điệu và cách truyền tải thông điệp của bài hát. Bây giờ thì có thêm 1 dòng nhạc mới. Chắc là sự khác biệt đó là Dân Ca Đương Đại. Một sự khác biệt nho nhỏ nữa là nhạc việt hát bằng lời việt còn nhạc quốc tế hát bằng tiếng nước ngoài 2-Bài của @quốc tuấn 14h 13’ Ngày 2/10/2017: -Quốc Tuấn Phong cách âm nhạc đa dạng, lời bài hát gắn liền với đời sống hàng ngày, nở rộ các cuộc thi, giải thưởng... là những khác biệt cơ bản của Vpop hiện tại với 10 năm trước. Vpop những năm cuối thập niên 90, đầu 2000 vẫn thường được nhắc đến như thời kỳ hoàng kim nhất. Hơn 10 năm sau, mọi thứ của làng nhạc đã thay đổi gần như chóng mặt. Cùng khám phá những nét thay đổi cơ bản nhất của làng nhạc trẻ 10 năm trước với thời điểm bây giờ! Xu hướng, dòng nhạc Dòng nhạc pop chiếm ưu thế chủ đạo trong làng nhạc Việt khoảng 15 năm trước. Làn sóng diva và các ca sĩ thị trường ăn khách khắp mọi miền cũng được sinh ra vào thời điểm này. Dù là diva hay ca sĩ trẻ, nhạc pop lãng mạn vẫn là xu hướng chính trong việc phát hành đĩa nhạc, bài hát của các ca sĩ ngày ấy. Ngoài ra, bên cạnh các ca khúc thuần Việt, nhiều ca sĩ đã gây được chú ý và thaành công trong sự nghiệp với chuỗi MV cổ trang cùng những bản nhạc Hoa, nhạc Thái... Vào thời điểm này, các ca khúc nhạc Hoa lời Việt, đặc biệt là những bản nhạc phim truyền hình rất ăn khách. Không ít các bài hit khủng của thời ấy và được yêu mến đến tận bây giờ đều được chào đời theo công thức nhạc ngoại, lời Việt như999 đóa hồng, Ảo mộng tình yêu, Kiếp ve sầu… Đan Trường là một trong những ca sĩ nổi lên bằng các ca khúc nhạc Hoa lời Việt Những năm gần đây, với sự tấn công ồ ạt của làn sóng Kpop, Vpop bị ảnh hưởng khá nhiều, nhất là khi các ca sĩ trẻ không ngần ngại chọn phong cách âm nhạc cũng như xây dựng hình ảnh tương tự với các ngôi sao của xứ kim chi. Về dòng nhạc, bên cạnh pop vẫn là chủ đạo, các thể loại rap, R&B, nhạc điện tử, world music… cũng dần định hình được khá rõ ràng và chất lượng nhờ những nhân tố trẻ và có tư tưởng hiện đại như Suboi, Kimmese, Hoàng Tôn, Mr T, Tiên Cookie, Toàn Thắng… Chính họ đã tạo nên những sắc màu rất riêng biệt cho làng nhạc, cùng thế hệ nghe nhạc 9X, 10X. Ngoài ra, kể từ khi luật về bản quyền được thông qua, cộng thêm sự tinh ý của cư dân mạng, các ca khúc nhạc ngoại lời Việt gần như không còn đất sống. Đạo ý tưởng MV, đạo trang phục, đạo vũ đạo... cũng khó lòng thoát ra khỏi tai mắt của các cư dân mạng nhạy bén, hiểu biết. Kimmese chọn hướng đi riêng với dòng nhạc rap Tình yêu trong âm nhạc Nhạc tình yêu luôn được khán giả ưa chuộng bất cứ thời điểm, hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, nếu tình yêu đôi lứa trong các sáng tác của thời kỳ trước chỉ là những lời thổ lộ vu vơ như “Nếu anh nói anh vẫn chưa yêu, là thật ra anh đang dối mình” (Trái tim chưa ngủ yên) hay “Nhiều lần ngập ngừng muốn ngỏ ý, tiếng yêu đương sao không thành câu” (Tình đơn phương)... Giờ đây, những lời ngỏ ý cũng mạnh dạn, táo bạo hơn, kiểu như "Yêu anh đi em... anh không đòi quà” (Anh không đòi quà), “Hay là mình cứ bất chấp hết yêu nhau đi” (Mình yêu nhau đi) được ưa chuộng hơn do đánh trúng tâm lý của khán giả trẻ, đặc biệt là những người… độc thân. "Hay mình cứ bất chấp hết yêu nhau đi anh" Giải thưởng Những giải thưởng như Làn Sóng Xanh, Mai Vàng khoảng 10 năm trước luôn được khán giả trông chờ. Bởi thời bấy giờ, việc có một chương trình được đầu tư và quy tụ dàn sao khủng, cùng nhau cống hiến những màn trình diễn hấp dẫn là rất hiếm hoi. Các fan muốn bình chọn cho thần tượng cũng phải vất vả viết tay từng lá phiếu nhỏ rồi gửi đến đơn vị tổ chức. Giải thưởng Làn Sóng Xanh trong những năm đỉnh cao Khi những giải thưởng cũ dần mất đi giá trị bởi những lùm xùm về tính trung thực, cũng như không còn tạo được sự khác biệt với các giải thưởng khác, những cuộc bình chọn mới lầ̀n lượt xuất hiện. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều thời gian để các giải thưởng này định hình được chỗ đứng của mình. Cuộc thi âm nhạc Cuộc thi ca nhạc lớn duy nhất được tổ chức trong những năm đầu là Tiếng hát truyền hình, sau đó có thêm Sao Mai điểm hẹn. Cả hai cuộc thi này đều đã tìm ra được không ít những nhân tố mới cho làng nhạc Việt như Tùng Dương, Ngọc Khuê, Hà Anh Tuấn... Những năm gần đây, chương trình truyền hình thực tế tìm kiếm tài năng ca hát lên ngôi mạnh mẽ. Kể từ khi Vietnam Idol được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2007 rồi kéo theo The Voice, Ngôi nhà âm nhạc, X-Factor..., nhiều tài năng, ngôi sao đã được tìm thấy qua các sân chơi này như Uyên Linh, Văn Mai Hương, Hương Tràm, Bùi Anh Tuấn, Bảo Anh… Dù vậy, hệ quả cũng đang được hình thành. Từ từng khiến khán giả say mê như điếu đổ, các cuộc thi âm nhạc truyền hình với những vấn nạn chung như ít tài năng, nhiều scandal... cũng đang khiến người xem dần ngán ngẩm. Vietnam Idol mở ra thời kỳ phát triển dồn dập của các chương trình truyền hình thực tế Phát hành sản phẩm Thời kỳ trước, các sản phẩm băng đĩa nhạc được tiêu thụ rất chạy. Mức độ thành công cũng được dựa vào số lượng sản phẩm mà từng cái tên có thể tiêu thụ. Cũng vì lý do này mà kẻ thù không đội trời chung của ca sĩ và nhà sản xuất chính là các đầu nậu đĩa chép. Những ca khúc được yêu thích cũng được chuyền tay nhau bởi những bản chép tay vào vở học sinh đã trở thành hình ảnh quen thuộc, đặc biệt là với những ai thuộc thế hệ cuối 8X, đầu 9X. Các quyển sổ có lời nhạc cùng hình những ca sĩ được yêu thích được bày bán trong các cửa tiệm cũng là những món đồ đáng mơ ước. Hình thức phát hành thông qua các trang nghe nhạc trực tuyến đang dần thay thế và áp đảo thị trường Đến lúc Internet dần trở nên phổ biến, để tránh tình trạng thất thoát cũng như dễ dàng tiếp cận với khán giả, phương pháp phát hành album online trên các trang web nghe nhạc trực tuyến dần được các ca sĩ chọn lựa. Chỉ những ca sĩ thật sự tự tin với lượng khán giả trung thành, mới dám phát hành đĩa nhưng cũng chỉ in với số lượng hạn chế. Lúc này, những quyển sổ chép nhạc cũng dần trở thành dĩ vãng khi chỉ cần một cú click chuột tìm kiếm, tất cả thông tin về ca khúc cũng như ca sĩ trình bày được cung cấp một cách đầy đủ nhất. Theo Phương Giang(ZVN) -Quốc Tuấn Âm nhạc luôn là nguồn cảm hứng bất tận và là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với tất cả mọi người. Trải qua thời gian, sở thích nghe nhạc của từng thế hệ tuy có khác nhau nhưng đều đa dạng, phong phú. Cách thức nghe nhạc Với những thập niên 90 của thế kỷ trước, thế hệ trẻ lúc bấy giờ chuyền tay nhau những cuốn sổ ghi lời bài hát đã trở nên rất đỗi quen thuộc. Những bài hát được chép cẩn thận, nắn nót trên trang giấy, xung quanh trang trí bằng bút màu xanh đỏ và hình ảnh của các ca sĩ, diễn viên được cắt ra từ những trang báo. Thời đó, ai “giàu” thì viết vào sổ, ai “nghèo” hơn thì viết vào một cuốn tập rồi mang theo mọi lúc mọi nơi. Để viết được một lời bài hát hoàn chỉnh đôi khi phải bấm “pause” cả mấy chục lần. unnamed Một "cuốn sổ nhạc thần thánh" thời ấy Ngày xưa, thanh niên còn đặt lịch hẹn, ngóng chờ bên radio mỗi khi có chương trình ca nhạc lên sóng. Lúc ấy, tất cả mọi người đều trân trọng từng giai điệu nhỏ để làm cho cuộc sống tinh thần thêm thú vị. Vào thời điểm đó, băng nhạc cũng là một sự lựa chọn cho các fan yêu nhạc nhưng nó xa xỉ hơn, bởi muốn nghe được thì phải đầu tư thêm máy phát. Do đó, khi có được một băng nhạc thì đều thuộc làu làu, gắn bó như kỷ niệm khó phai. Trong suy nghĩ của mỗi người đều mường tượng ra rằng: Nó ở đâu ra, nội dung có gì, ai là người hát, hay dở ra sao,… Có người còn cẩn thận đặt tên: đây là băng của ai, hình ảnh gợi lên khi nghe băng nhạc đó là gì, gắn với người ai thì mình đặt tên cho băng là tên người ấy. xp8n03.jpg/ 1529794_1093697.jpg/ Mỗi băng nhạc đều có phần để ghi chú thích unnamed Vào thời điểm internet xuất hiện và trở nên phổ biến, cách thức nghe nhạc của giới trẻ cũng dần thay đổi. Thay vì tìm tới những cuốn sổ ghi chép hay mua các băng nhạc, những người yêu thích âm nhạc có thể dễ dàng tìm trên mạng những Music Video có hình ảnh đẹp, rõ nét và hiển thị ca từ ngay trong từng video trên các trang mạng xã hội như: Youtube, Zing Mp3, Nhaccuatui, Facebook bằng điện thoại thông minh hoặc máy tính để nghe. Chính vì thế, thị trường âm nhạc xuất hiện với vô vàn các thể loại khác nhau như: Vpop, Kpop, Jpop, US-UK,…. unnamed unnamed unnamed Mạng xã hội giúp việc nghe nhạc trở nên dễ dàng hơn rất nhiều Xu hướng âm nhạc ưa thích Vào khoảng 15 năm trước, dòng nhạc pop lãng mạn, nhẹ nhàng trở nên phổ biến với thị trường âm nhạc ở Việt Nam. Tất cả những ca sĩ thị trường ăn khách khắp mọi miền cũng được sinh ra vào thời điểm này. Trong thời điểm ấy, ngoài những bài hát thuần Việt thì những bản nhạc lời Việt gốc hoa cũng rất được ưa chuộng. Ngoài ra, những bản nhạc phim truyền hình cũng được khán giả rất ưa thích và đón nhận một cách nồng nhiệt. Rất nhiều các bản hit lớn thời bấy giờ được yêu mến đều được chào đời theo công thức "nhạc ngoại lời Việt" như: 999 đóa hồng, Ảo mộng tình yêu, Kiếp ve sầu… unnamed unnamed unnamed Trong những năm trở lại đây, với sự xuất hiện ồ ạt của làn sóng Hallyu, xu hướng nghe nhạc của thế hệ trẻ bây giờ đa phần đều thích nhạc Kpop. Chính vì thế, âm nhạc Việt cũng bị ảnh hưởng khá nhiều. Về dòng nhạc, bên cạnh nhạc pop vẫn là chủ đạo, các thể loại rap, R&B, nhạc điện tử, world music… cũng dần định hình được khá rõ ràng và chất lượng nhờ những nhân tố trẻ và có tư tưởng hiện đại như: Suboi, Kimmese, Hoàng Tôn, Mr T, Tiên Cookie,… Nhờ sự sáng tạo không ngừng nghỉ, họ đã tạo nên những màu sắc rất riêng biệt cho làng nhạc, cùng thế hệ nghe nhạc 9X, 10X. unnamed unnamed unnamed Phong cách âm nhạc được yêu thích Đối với thế hệ trước, ngoài các ca khúc thuần Việt được khán giả yêu mến khi mang đậm phong cách của người Việt với áo dài, áo bà ba, hình ảnh thôn quê thì phong cách nhạc ngoại cũng rất được ưa chuộng. Chính vì thế, nhiều ca sĩ đã gây được chú ý và thành công trong sự nghiệp với chuỗi Music video diện trang phục cổ trang như những bản nhạc Hoa, nhạc Thái... unnamed hqdefault Những năm gần đây, cùng với sự ảnh hướng rất lớn của làn sóng Hally, âm nhạc Việt bị ảnh hưởng khá nhiều. Giới trẻ ngày nay không chỉ thích nghe âm nhạc đơn thuần, vũ đạo trong các Music Video cũng là điều đáng lưu tâm. Vũ đạo đẹp, trang phục nhiều màu sắc, bắt mắt là điều dễ dàng gây ấn tượng đối với khán giả. Chính vì thế, các ca sĩ trẻ đã chọn phong cách âm nhạc cũng như xây dựng hình ảnh tương tự với các ngôi sao nổi tiếng đến từ Hàn Quốc để phù hợp với thị hiếu và thu hút khán giả hơn. 1487034771_son-tung-mtp-ra-mat-mv-noi-nay-co-anh-vao-ngay-valentine-don-tim-fan-ham-mo-anh-1.jpg/ unnamed nhom-nhac-1_wznl.jpg/ Kết Dù ở bất cứ thời điểm nào, âm nhạc chiếm một vị trí quan trọng rất lớn đối với cuộc sống của mỗi con người. Nó như là một điều tất yếu và không thể thiếu đối với những ai dành tình yêu cho âm nhạc Dù là thế hệ ngày xưa hay bây giờ, khán giả đều mong muốn các nghệ sỹ cho ra đời những sản phẩm âm nhạc chất lượng nhất, phù hợp với mỗi cá nhân. -Quốc Tuấn Âm nhạc Việt Nam là 1 phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh đúng những nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong tục, địa lý,... của đất nước Việt Nam, trải dài qua suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Âm nhạc Việt Nam bắt đầu từ những nền văn minh đầu tiên qua những phát hiện khảo cổ về những nhạc cụ và tranh vẽ trong hang đá. Trải qua những triều đại phong kiến, nền âm nhạc Việt Nam có được những nét phát triển rõ rệt và đặc trưng. Tới thời kỳ đô hộ của Trung Quốc ngoài ra của các nền văn hóa ngoại lai khác như Ấn Độ, Chăm Pa,... âm nhạc Việt Nam sớm có được những ảnh hưởng và quan điểm mới, dung hòa hoàn hảo những yếu tố ảnh hưởng từ nước ngoài với những nét nổi bật vốn có của âm nhạc truyền thống, từ đó tạo nên những loại hình âm nhạc cổ truyền của từng vùng miền như hát xẩm, hát chèo, ca trù, hò, cải lương, đờn ca tài tử, nhã nhạc cung đình Huế, quan họ,... Âm nhạc phương Tây xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 14.[cần dẫn nguồn] Giai đoạn Pháp thuộc vào cuối thế kỷ 19 đặc biệt góp phần giúp âm nhạc Việt Nam được tiếp xúc với những phong cách và quan điểm của văn hóa phương Tây, đồng thời tiếp tục phát triển với những nét đặc trưng riêng. Tân nhạc Việt Nam ra đời vào cuối thập niên 1930 với dòng nhạc tiền chiến rồi tiếp hơi cho những làn điệu mới trong thời gian đất nước chia đôi dưới hai chính thể: Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhạc đỏ ra đời sau năm 1945 ở miền Bắc với sự xuất hiện của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng, sau này trở thành cột trụ của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại,[cần dẫn nguồn] trong khi đó nhiều thể loại âm nhạc mới như nhạc vàng, nhạc trẻ, du ca nở rộ ở Miền Nam. Sau năm 1975, âm nhạc Việt Nam bắt đầu học tập nhiều phong cách từ khắp nơi trên thế giới. Sau khi đất nước mở cửa vào cuối thập niên 1980, đặc biệt là việc những lứa nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên được cử đi du học ở nước ngoài, âm nhạc Việt Nam đã theo kịp xu hướng của thế giới, mang theo nhiều phong cách và thể loại chưa từng xuất hiện tới nền văn hóa đại chúng nói chung và nền âm nhạc nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, một số lượng lớn nghệ sĩ hải ngoại cũng góp phần xây dựng đáng kể vào sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam ngày nay. Âm nhạc hiện đại Việt Nam bao gồm nhiều yếu tố kết hợp của các nền văn hóa châu Á, châu Âu, thậm chí châu Mỹ và châu Phi qua việc gia tăng cộng tác của các nghệ sĩ trong nước với các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Trên hết, âm nhạc Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
BÀI DỰ THI ĐĂNG TIẾP: 3-Bài của @vu hong son: 15h30 Ngày 2/10/2017: -Vu Hong Son Phải đâu văn tả nhạc nào. Gu gồ tài trợ lời sao ý dài. Nhân đây cháu cũng có bài Gửi cho giám khảo có bài chấm thi. Khác âm nhạc tại nước ta. Lúc đầu sáng tác do là từ tâm. Nghe sao nhớ mãi dư âm. Đi cùng năm tháng thâm trầm chẳng quên. Nhạc hoa lời việt rộ lên. Tuy rằng đạo nhạc nhưng lời có tâm. Đan xen sáng tác uyên thâm. Bây giờ nền nhạc u âm. Chạy theo vê bốp hâm hâm có thừa Chỗ thừa chỗ thiếu khéo vừa. Quần mười (mười phân) áo ngắn cày bừa trên sân. Hở sao hết mức như không (ko mặc gì). Hát lời chẳng đạt gán ngay lạ lời. Rồi đem tung hứng lừa đời. Lại thêm vài cái dở hơi. Ôi thôi âm nhạc hiện thời bê tha. Nghe mà chỉ thấy điếc tai . May sao đây đó còn vài bài hay. -P/S Tiểu Thương: Chính Vượng GỬI BẠN VU HONG SON Chuẩn dòng “ Họ Vũ, Núi Hồng” Lời ra chặt sắt, chẻ đồng như chơi Dầu buồn, gác lại bạn ơi Bàn về “Ca Khúc” cho đời vui hơn. 4-Bài của @ GIANG LƯU: 15h58’ Ngày 2/10/2017: -Giang Lưu Âm nhạc Việt Nam và nước ngoài có lẽ khác nhau ở những điểm: Thứ nhất Âm nhạc Việt chia ra các giai đoạn phụ thuộc vào các giai đoạn lịch sử của đất nước, ở mỗi thời kỳ mang âm hưởng rất rõ rệt của thời kỳ ấy (trước năm 75, từ năm 75 đến 90, 90 đến 2000, từ 2000 đến nay). Thứ hai là ở trong bất kỳ thời kỳ nào âm nhạc cũng mang ảnh hưởng rõ nét của tính dân tộc nhất là trước những năm 90, sau này nước ta hội nhập quốc tế nên âm nhạc cũng bị hội nhập theo và tính dân tộc đã mất đi ít nhiều nhưng nó vẫn còn tồn tại: đó là tính nhân văn; tính "phiếm thần" tôn trọng các quy luật của tự nhiên, tạo hóa; đó là sử dụng âm hưởng ngôn ngữ của dân tộc. Thứ ba là có những người yêu thứ âm nhạc của dân tộc mình như chú Tiểu Thương .... Cháu chỉ nghĩ được tới vậy có gì sai sót mong chú bỏ qua . Cảm ơn chú! -P/S Tiểu Thương Chính Vượng GỬI GIANG LƯU Chắc Giải “Ka-Ka” rồi Hơi tiếc chuyện “Lẫn-Đồi” Họ với tay Lưu Bị Toàn quên Ba Thục thôi. -Giang Lưu Cháu mạn phép bổ sung. Có lẽ ca sỹ thể hiện âm nhạc Việt bình dị, hát theo bản năng nên mang nhiều chữ tình hơn, thể hiện rõ hồn của ca khúc ngôn từ, dễ đi vào lòng người Việt. Hiện tại thì giống quốc tế ca sỹ được đào tạo bài bản chú trọng vào kỹ thuật, tinh thần bài hát được thể hiện bằng nhịp điệu, cao độ âm vực của giọng hát nên hơi khác một chút. 5- Bài của @ CĂN NGUYỄN: 16H02’ Ngày 2/10/2017: -Căn Nguyễn Theo như e nghĩ thì ngày trước nhạc vàng hay nhạc đỏ mang những lời lẽ yêu thương đậm đà mà lại giản dị đậm chất quê hương, có nhiều bài ca ngợi tình yêu quê hương đất nước tình yêu đôi lứa v.v.... nôm na là mang tính chất lãng mạn và tính giải trí rất cao nhưng gần đây nhạc bolero lại trở thành một món ăn tinh thần của mọi lứa tuổi và đặc biệt là những ca sĩ gạo cội cũng đã quay lại khai thác dòng nhạc này... mặc dù có rất nhiều ý kiến trái chiều về loại dòng nhạc này nhưng bolero vẫn luôn tồn tại và song song với dòng âm nhạc việt và còn có 1 chỗ đứng nhất định trong lòng khán giả... có nhiều nhạc sĩ nhận định rằng khi dòng nhạc mới k cuốn hút hay k phù hợp với những sở thích hay niềm đam mê của họ thì họ có thể quay từ cái mới về cái cũ ... có cầu thì ắt có cung...đó là dòng nhạc bolero và sự bùng nổ này cũng k ảnh hưởng gì đến âm nhạc việt nam bởi vậy cần để dòng nhạc này tồn tại và phát triển nhiều hơn nữa........ đó là câu trả lời của e ạ. Có gì thiếu thốn mong chú Vượng Chính chỉ bảo thêm ạ. Cảm ơn chú ạ. -P/S Tiểu Thương: Chính Vượng GỬI BẠN CĂN NGUYỄN Nặng lòng cùng Nhạc Việt Có chiều sâu hiểu biết Nếu rành câu “Quên Hết” Ắt chạm đến “trí tri” Ai nói kệ họ đi Mua vé nghe ca sĩ Đồng tiền là thước kẻ Vạch rõ những đường cong. Bạn cố gắng thêm không?... -Căn Nguyễn Dạ thưa chú theo cháu được biết thì hiện nay âm nhạc bây jo thay đổi rất nhiều ạ. Cả về nhân văn cũng như con người. Xã hội thay đổi thì con người cũng thay đổi ah. Cũng chỉ vì đồng tiền mà thay đổi bản sắc nhạc việt... lời bài hát đôi khi cũng viết khác đi so với thời trước những câu từ bjo chỉ hợp với giới trẻ còn những làn điệu như dân ca . Cải lương. Chèo . Nhạc vàng nhạc đỏ dần dần bị các bạn trẻ bỏ quên... bây giờ cần phải nhìn lại chặng đường đã qua của nền âm nhạc việt nam đã và đang làm dc những gì để phát triển ạ.... 6-Bài của @Nguyễn Thanh Mai: 22h16 Ngày 2/10/2017: -Nguyễn Thanh Mai Thưa chú... nền âm nhạc việt nam từ đầu những năm kháng chiến đều có những nét đẹp riêng viết nhiều về quê hương về con người và cũng nhiều bài nói về sự hy sinh để giữ gìn nền độc lập cho nước nhà đó là bản sắc riêng của thể loại như nhạc vàng nhạc đỏ và nhạc cách mạng.... hiện nay thời đại đổi mới con người thay đổi theo thời gian nên những loại hình nghệ thuật như nhạc vàng, đỏ có thể nói gần như bị lãng quên theo thời gian... các bạn trẻ bjo chạy theo thời theo thế để đuổi cái lý tưởng riêng của mình cái cá tính riêng mà vô tình quên đi những làn điệu quen thuộc mà đáng lẽ ra phải nhớ và phải thuộc ... quay trở lại hiện tại bjo nhiều người thích nhạc bolero đó cũng là 1 phần của dòng nhạc vàng thu nhỏ lại nhiều khi nghe mà cảm thấy lòng thảnh thơi và nhẹ nhõm và cũng dễ đi vào lòng người cho nên theo cháu nghĩ cần phát huy hơn nữa dòng nhạc vàng nhạc đỏ cũng như bolero để k quên đi nguồn gốc của nhũng dòng nhạc này và phải phát huy hơn nũa đến từng người con đất việt đã và đang sống trong nền âm nhạc việt nam ạ... cháu cảm ơn ạ 7- Bài của @vechaibinhduong: 2h48 Ngày 3/10/2017: Vechai Binhduong Nhạc đặt hàng, thường khác với nhạc xuất phát từ cảm xúc... Nói chung cũng do cách nghe nhạc của các tầng lớp là khác nhau, mà nhạc cũng cố gắng chạy theo để đua đòi cho kịp thị trường. Những người sẵn sàng bỏ tiền đi xem nhạc nhiều nhất, lại đa số là ko có nhu cầu nghe nhạc...mà là "xem nhạc" thì đúng hơn.
Ứ ừ chẳng phải tớ sai Chắc thằng đánh máy nhỡ tay "oánh nhầm" Thay mặt "thằng nớ" cảm ơn Còn như "lãnh đạo" sáng hơn "đèn rời".